Xác lập quyền sở hữu theo các phương thức trực tiếp khác

Các phương thức trực tiếp xác lập quyền sỏ hữu đối với tài sản hữu hình được thừa nhận tại Điều 170 BLDS bao gồm: sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; chiếm hữu đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc gia cầm bị thất lạc;...

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Thứ nhất, sáp nhập, trộn lẫn, chế biến

Chế biến

Đối tượng của việc chế biến phải là động sản. Việc chế biến có thể được chủ sở hữu tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện thông qua một hợp đồng gia công và chủ sở hữu nguyên vật liệu trở thành chủ sở hữu tài sản mới tạo thành (BLDS Điều 238 khoản 1). Cũng có trường hợp vật được chế biến bởi một người không phải là chủ sở hữu đối với vật đó mà cũng không được chủ sở hữu yêu cầu làm việc đó; người chế biến có thể ngay tình hoặc không ngay tình, khi chiếm hữu tài sản gốc.

Luật hiện hành quy định rằng nếu người chế biến ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của của tài sản mới, nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó (BLDS Điều 238 khoản 2). Trong trường hợp người chế biến không ngay tình, thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu giao vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu, thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu không ngay tình đối với nguyên vật liệu bị chế biến có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại (Điều 238 khoản 3). Như vậy:

- Thứ nhất, luật không dự liệu việc thanh toán công sức lao động mà người chế biến không ngay tình bỏ ra để để chế biến sản phẩm. Người chế biến không ngay tình không những không có quyền sở hữu đối với tài sản mới mà còn không được trả công chế biến và phải bồi thường thiệt hại, nếu chủ sở hữu nguyên vật liệu có yêu cầu.

- Thứ hai, nếu việc chế biến được thực hiện một phần bằng nguyên vật liệu của người chế biến không ngay tình, thì người này cũng trở thành một trong các đồng chủ sở hữu theo phần đối với tài sản mới, áp dụng Điều 238 khoản 3 nêu trên. Tất nhiên, người này vẫn phải bồi thường thiệt hại, nếu chủ sở hữu phần nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có yêu cầu.

Sáp nhập và trộn lẫn

Đặt vấn đề - Sáp nhập, trong luật hiện hành, là việc gắn một vật vào một vật khác tạo thành một vật mới có thể chia được hoặc không chia được (BLDS Điều 236 khoản 1) ; còn trộn lẫn là việc pha trộn các vật với nhau tạo thành một vật mới (Điều 237 khoản 1). Vật được sáp nhập có thể là một động sản hoặc một bất động sản, vật được trộn lẫn chỉ có thể là một động sản.

Sáp nhập bất động sản

Nguyên tắc: quyền sử dụng đất luôn là vật chính - Các bất động sản hữu hình nếu không là đất, thì đều là những tài sản gắn liền với đất và đều là những vật phục vụ cho việc khai thác công dụng của đất. Với đặc điểm đó, các tài sản gắn liền với đất phải được coi là vật phụ so với đất. Đất, hay nói đúng hơn là quyền sử dụng đất luôn là vật chính.

Sáp nhập bất động sản có thể xảy ra tự nhiên, như trong trường hợp di chuyển tự nhiên của vật nuôi dưới nước nhưng có khi sự sáp nhập là rõ ràng về mặt tự nhiên nhưng lại không được coi là sáp nhập về mặt pháp lý trong luật Việt Nam (ví dụ như sự bồi đắp của phù sa...).

Sự sáp nhập cũng có thể xảy ra một cách nhân tạo.

Theo BLDS Điều 236 khoản 3, “Khi một người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là bất động sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập thì chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại”. Vậy, các tài sản gắn liền với đất do sự sáp nhập thuộc quyền sở hữu của người có quyền sử dụng đất. Giải pháp này còn được luật chính thức thừa nhận cho trường hợp đặc thù của việc sáp nhập các vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên (BLDS Điều 244). Tuy nhiên, chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có quyền yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.

Sáp nhập và trộn lẫn động sản

Các quy tắc chung - Nếu các tài sản được sáp nhập hoặc trộn lẫn thuộc về cùng một chủ sở hữu, thì chính người này là chủ sở hữu tài sản mới được tạo thành từ việc sáp nhập hoặc trộn lẫn. Nếu tài sản được sáp nhập hoặc trộn lẫn thuộc hai chủ sở hữu khác nhau, thì cả hai trở thành những người có quyền sở hữu chung theo phần đỗi với tài sản mới (BLDS Điều 236 khoản 1, Điều 237 khoản 1).

Nếu trường hợp việc sáp nhập hoặc trộn lẫn được thực hiện với sự không ngay tình thì người có tài sản bị sáp nhập hoặc bị trộn lẫn có thể lựa chọn một trong hai giải pháp như ta đã biết (BLDS Điều 236 khoản 2, Điều 237 khoản 2) hoặc nhận tài sản mới và thanh toán cho người sáp nhập hoặc trộn lẫn giá trị phần tài sản của người đó; hoặc không nhận tài sản mới và yêu cầu người sáp nhập, trộn lẫn thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại.

Thứ hai, chiếm hữu theo khoản 6 Điều 170 BLDS

Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc.

Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên

“Người nhặt hoặc phát hiện được vật do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên mà biết rõ địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên, thì phải thông báo hoặc trả lại vật cho người đó.” (BLDS Điều 239 khoản 2, Điều 241 khoản 1). Trường hợp không biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên, BLDS quy định rằng “người nhặt hoặc phát hiện phải thông báo cho UBND xã, phường, thị trấn hoặc Công an cơ sở nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau một năm kể từ ngày thông báo công khai về vật nhặt được, phát hiện được mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận, nếu vật có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được, phát hiện được” (Điều 239 khoản 2 đoạn 4, Điều 241 khoản 2); “nếu vật có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, thì sau khi trừ chi phí bảo quản người nhặt được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc Nhà nước” (Điều 241 khoản 2 BLDS). “Trong trường hợp vật bị đánh rơi, bị bỏ quên là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa mà sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai, không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc không có người đến nhận, thì vật đó thuộc Nhà nước và người nhặt được, phát hiện được vật đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật” (Điều 241 khoản 3).

Gia súc, gia cầm bị thất lạc

Việc xác lập quyền sở hữu đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc được dự liệu tại các Điều 242 và 243 BLDS. Nếu bắt được gia súc bị thất lạc, thì người bắt được phải thông báo cho UBND xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại (Điều 242). Người bắt được gia súc bị thất lạc, sau khi hết thời hạn sáu tháng kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì sẽ được xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc đó Nếu gia súc bắt được là gia súc thả rông theo tập quán, thì thời hạn này là một năm (Điều 242); còn đối với gia cầm thất lạc, thời hạn này là một tháng kể từ ngày thông báo công khai (Điều 243).

Nếu có người đến nhận gia súc trong thời hạn luật định và, trong thời gian chờ đợi, gia súc sinh con, thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra (Điều 242). Trong cùng một giả thuyết, người bắt được gia cầm được hưởng trọn hoa lợi do gia cầm sinh ra (Điều 243). Cần lưu ý rằng hoa lợi nói ở đây là hoa lợi phát sinh trong suốt thời gian người bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc chiếm hữu tài sản cho đến ngày cuối của thời hạn được luật ấn định để chủ sở hữu thực hiện quyền nhận lại tài sản, không phải từ ngày thông báo công khai cho đến hết thời hạn luật định. Ngoài ra, cần lưu ý rằng hoa lợi của gia súc sinh sản nhiều kỳ sẽ được phân chia theo lứa chứ không theo số đầu gia súc thực tế.

Qua nội dung đã phân tích ở trên, ta có thể rút ra một số nhận người xét sau:

Thứ nhất, trong khoảng thời gian giữa thời điểm nhặt, phát hiện vật bị đánh rơi, bị bỏ quên hoặc thời điểm bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc và thời điểm giao trả lại cho chủ sở hữu hoặc giao nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được có quyền chiếm hữu tài sản đó. Để có quyền chiếm hữu tài sản, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được phải thông báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tự mình thông báo công khai. Quyền chiếm hữu được xác lập kể từ ngày nhặt, phát hiện, bắt được chứ không phải từ ngày thông báo. Nếu không thông báo, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được sẽ ở trong tình trạng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình đối với tài sản. Dù có thông báo hay không, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được không thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với vật bằng cách chỉ dựa vào tình trạng chiếm hữu liên tục và công khai. Thứ hai, luật không định thời hạn thông báo công khai kể từ ngày vật được nhặt, phát hiện, bắt được hoặc được giao nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Luật cũng không xác định hình thức thông báo công khai (công bố trên báo đài, đài trung ương, đài địa phương,...) vấn đề này được giải quyết tùy theo tập quán sinh hoạt của từng vùng cũng như mức độ hiện đại của các phương tiện thông tin mà dân cư trong vùng đang sử dụng hoặc hưởng thụ.

Thứ ba, luật không xác định từ thời điểm nào quyền sở hữu được xác lập cho người nhặt, phát hiện vật bị đánh rơi, bỏ quên hoặc bắt được gia cầm, gia súc thất lạc. Ta có thể suy luận hai cách thức xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu trong trường hợp này như sau: quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm hết hạn để người đánh rơi, bỏ quên, làm thất lạc nhận lại tài sản; hoặc quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm nhặt, phát hiện vật, bắt được gia cầm, gia súc đó. Rõ ràng, việc xác lập quyền sở hữu theo cách thứ nhất tỏ ra hợp lý hơn về lý luận cũng như thực tiễn và cũng phù hợp với tinh thần của giải pháp cho vấn đề xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu ghi nhận tại khoản 1 Điều 247 BLDS.

Việc chuyển nhượng vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc - được giải quyết như sau:

- Giả thuyết thứ nhất: người nhặt được vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc đã có thông báo công khai và việc chuyển nhượng được thực hiện trong thời gian chờ đợi - Người được chuyển nhượng không thể được coi như ngay tình khi tham gia vào việc chuyển nhượng, bởi đã có thông báo công khai: việc thông báo có tác dụng đặt tất cả mọi người vào tình trạng buộc phải biết việc chiếm hữu gia, súc, gia cầm bị thất lạc. Nhưng, một cách hợp lý, người này phải được hưởng thời gian chiếm hữu liên tục của người chuyển nhượng và chỉ cần chờ đến khi hết thời hạn luật định, kể từ ngày thông báo công khai, để xác lập quyền sở hữu của mình đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc và được chuyển nhượng. Giả sử, trong thời gian chờ đợi, chủ sở hữu gia súc, gia cầm bị thất lạc đến nhận lại tài sản, thì người được chuyển nhượng cũng có quyền yêu cầu hoàn trả chi phí nuôi giữ và các chi phí khác, cũng như được quyền sở hữu đối với hoa lợi như thể tài sản còn nằm trong tay người chuyển nhượng. Ta nói rằng việc chuyển nhượng có tác dụng chuyển các quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản chuyển nhượng cho người được chuyển nhượng. Nếu tài sản được chuyển nhượng trong điều kiện đã có thông báo công khai, thì người chuyển nhượng và người được chuyển nhượng hưởng hoa lợi phát sinh trong thời gian chiếm hữu của mình, theo các quy định tại các Điều 242 và 243 BLDS.

- Giả thuyết thứ hai: người bắt được gia súc, gia cầm không thông báo công khai. Không thông báo, người chuyển nhượng ở trong tình trạng chiếm hữu không ngay tình. người được chuyển nhượng có thể biết mà cũng có thể không biết điều đó. Nếu người được chuyển nhượng biết mà vẫn chấp nhận mua, trao đổi,... thì người này tiếp tục chiếm hữu không ngay tình và không bao giờ có thể xác lập được quyền sở hữu đối với tài sản.

Nếu người được chuyển nhượng không biết và không thể biết việc chiếm hữu không ngay tình của người chuyển nhượng, thì sau khi chuyển nhượng, người được chuyển nhượng sẽ trở thành người chiếm hữu ngay tình. Trong trường hợp này, quyền sở hữu đối với tài sản có thể được xác lập theo thời hiệu, được quy định tại khoản 1 Điều 255 BLDS. Nếu tài sản được chuyển nhượng trong điều kiện người chuyển nhượng không thông báo công khai, thì, khi chủ sở hữu của gia súc, gia cầm bị thất lạc xuất hiện, việc giải quyết số phận của hoa lợi được xác định tuỳ theo người được chuyển nhượng ngay tình hoặc không ngay tình: nếu ngay tình, người này không phải hoàn trả hoa lợi đã thu được cho đến ngày chấm dứt sự ngay tình; trong trường hợp không ngay tình, người này phải hoàn trả toàn bộ hoa lợi sinh ra
từ khi bắt đầu chiếm hữu.

Vật bị chôn giấu

Theo BLDS Điều 240, “Vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu, thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với vật đó được xác định như sau:

1. Vật được tìm thấy là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa, thì thuộc Nhà nước, người tìm
thấy vật đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

2. Vật được tìm thấy không phải là di tích lịch sử, văn hoá, mà có giá trị đến mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu vật tìm thấy có giá trị lớn hơn mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc Nhà nước.

Thứ ba, chiếm hữu theo khoản 7 Điều 170 BLDS

Chiếm hữu với tư cách chủ sở hữu

Có đủ corpus và animus - Để xác lập được quyền sở hữu theo thời hiệu, người chiếm hữu tài sản phải chiếm hữu theo cung cách của một người có quyền sở hữu đối với tài sản đó, nghĩa là có đủ corpus và animus. Việc chiếm hữu phải liên tục và công khai.

Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình

Người tự mình chiếm đoạt tài sản của người khác không bao giờ là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình theo nghĩa của khoản 1 Điều 247 BLDS bởi người này biết rõ hoặc buộc phải biết tài sản không thuộc sở hữu của mình, nhưng vẫn xử sự như là chủ sở hữu; không có sự ngay tình cần thiết, người này mãi mãi là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật cũng không ngay tình và không bao giờ có quyền sở hữu đối với tài sản. Tuy nhiên, nếu người chiếm đoạt chuyển nhượng tài sản cho người khác và người được chuyển nhượng không biết và không thể biết việc chiếm đoạt, thì người được chuyển nhượng sau này lại trở thành người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình.

Luật Việt Nam hiện hành còn đang trong giai đoạn hoàn thiện khái niệm “người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình”. Có thể xác định được rằng người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình đối với tài sản phải hội đủ các điều kiện sau đây:

- Thứ nhất, phải là người nhận được tài sản từ tay một người xử sự theo cung cách của một chủ sở hữu và giao tài sản một cách tự nguyện, nghĩa là nhận được tài sản do một vụ chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng tài sản có thể được giao kết và thực hiện có đền bù (bán, trao đổi..) hoặc không có đền bù (tặng, cho, di tặng...).

- Thứ hai, phải ngay tình, nghĩa là “không biết hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật” (BLDS Điều 189 đoạn 2).

Luật viết cũng ghi nhận một số trường hợp đặc biệt:

Quyền sở hữu nhà nước không mất đi theo thời hiệu - Theo khoản 2 Điều 247 BLDS, người chiếm hữu tài sản thuộc sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật, thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản đó.

Tổ bộ môn Luật Dân sự - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình,tổng hợp


  1. Nội dung trong bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy (chú thích rõ trong bài viết).
  2. Bài viết được sử dụng không nhằm mục đích thương mại, chỉ nhằm mục đích giảng dạy, tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật, trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, quý Vị vui lòng liên hệ với các luật sư, luật gia của Công ty Luật TNHH Everest và Khoa Luật Kinh tế - Đại học Hòa Bình, qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], hoặc trực tiếp tại địa chỉ Khoa Luật kinh tế Đại học Hòa Bình, số 8 phố Bùi Xuân Phái, Nam Từ Liêm, Hà Nội.