Luật sư tư vấn về các trường hợp bị coi là tái phạm nguy hiểm

Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Hỏi: Tôi có chồng từng có một tiền án cướp giật tài sản và đương nhiên được xóa án tích sau 5 năm. Hiện tại chồng tôi lại tiếp tục bị án cướp giật tài sản điểm d khoản 2 điều 136. Cho tôi hỏi như thế chồng tôi có bị coi là tái phạm nguy hiểm không? quy định pháp luật Hình sự thế nào? (Thu Hằng - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 49 BLHS về tái phạm, tái phạm nguy hiểm quy định như sau:

“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.”

Như vậy, theo bộ luật hình sự các trường hợp được coi là tái phạm nguy hiểm có thể hiểu như sau:

- đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

- đã tái phạm, chưa được xóa án mà lại phạm tội do cố ý. Đối với trường hợp này, người phạm tội khi bị tòa án kết luận có tái phạm và đã bị kết án, khi chưa được xóa án tích mà lại phạm tội thì sẽ bị coi là tái phạm nguy hiểm, không phân biệt tội ít nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Khoản 3 điều 8 Bộ luật hình sự định nghĩa tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng như sau:

“tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

Điểm d khoản 2 điều 36 BLHS quy định như sau:

“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mườinăm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩuthoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thươngtật từ 11% đến 30%;

g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

h) Gây hậu quả nghiêm trọng.”

Khunghình phạt cao nhất mà quy định này đưa ra là mười năm tù, như vậy, đây không là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo định nghĩa khoản 3 điều 8 BLHS.

Có thể thấy một trong những điều kiện quan trọng để có thể coi là tái phạm nguy hiểm đó là người phạm tội đã phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc đã bị kết án tái phạm mà vẫn tiếp tục phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích. Chồng của bạn tuy có tiền án về tội cướp giật tài sản nhưng qua 5 năm, đã được xóa án tích và cũng chưa bị tòa kết án tái phạm lần nào cho đến nay, nêntrường hợp này không được coi là tái phạm nguy hiểm.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.