Trường hợp chủ đầu tư giao bất động sản chậm tiến độ ghi trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm với khách hàng theo hợp đồng và phải trả cho khách hàng một khoản tiền lãi của phần tiền ứng trước tính theo lãi suất vay ngân hàng thương mại.
Hỏi: Thưa luật sư, năm 2013, tôi có ký hợp đồng góp vốn mua căn hộ với một công ty bất động sản. Theo hợp đồng thì trong tháng 12 năm 2016, công ty phải giao căn hộ. Tôi đã đóng tiền cho công ty trên 270.000.000 đồng.Hiện nay, vì không có căn hộ để giao cho khách hàng nên Công ty đề nghị hỗ trợ cho tôi 10.000.000 đồng và đồng ý chịu phạt với lãi suất 0,7%/ tháng trên tổng số tiền tôi đã nộp. Tôi không đồng ý, bởi theo hợp đồng thì Công ty phải chịu phạt với lãi suất 1,5%/ tháng trên tổng số tiền khách hàng đã nộp. Đề nghị Luật sư tư vấn, trường hợp này, công ty phải làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của mình? (Hà Anh - Hà Nội)
Điểm d, điểm e khoản 1 Điều 14 Luật kinh doanh bất động sản năm 2006 có quy định như sau: “d) Trường hợp chủ đầu tư giao bất động sản chậm tiến độ ghi trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm với khách hàng theo hợp đồng và phải trả cho khách hàng một khoản tiền lãi của phần tiền ứng trước tính theo lãi suất vayngân hàng thương mại tại thời điểm giao bất động sản tương ứng với thời gian chậm tiến độ;e) Việc chọn lãi suất vay ngân hàng thương mại quy định tại điểm d và điểm đ của khoản này phải được thỏa thuận trong hợp đồng".
Do vậy công ty xây dựng có trách nhiệm bàn giao nhà choanh (chị)đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp chậm bàn giao nhà thì phải bồi thường theo thỏa thuận và phải chịu mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng, mức lãi suất trong hợp đồng không được vượt quá mức lãi suất mà pháp luật quy định. Căn cứ vào những thông tinanh (chị)cung cấp, thì công ty xây dựng sẽ phải bồi thường với mức lãi suất đã thỏa thuận là 1,5%/tháng/tổng số tiền khách đã nộp. Việc công ty chỉ trả với mức lãi suất là 0,7% là không đúng nếu không được sự đồng ý của anh (chị).
Để bảo vệ quyền lợi của mình anh (chị) có thể gửi đơn kiện công ty xây dựng tới Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã nơi có bất động sản căn cứ theo khoản 1 Điều 33, điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự(sửa đổi, bổ sung 2011). Hoặc nếu trong hợp đồng mua bán nhà giữaanh (chị)với công ty xây dựng có điều khoản về việc giao nhà chậm là căn cứ để bên mua hủy hợp đồng thìanh (chị)có thể hủy hợp đồng và yêu cầu bên phía công ty bồi thường, căn cứ theo Điều 425 Bộ luật dân sự năm 2005:“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.2. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.3. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền.4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại”.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận