Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại.
Khái niệm
Nguồn nguy hiểm cao độ: Điều 623, BLDS 2005 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ , chất cháy, chất độc , chất phóng xạ, thú dữ và nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định....”.
Theo đó, Điều 623, BLDS 2005 cũng như hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, qua quy định trên, ta có thể hiểu: “Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối”.
Thực tế, việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ không chỉ căn cứ vào khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ tại Điều 623 Bộ luật dân sự mà còn phải căn cứ vào các văn bản, các quy định khác có liên quan. ·
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Bên cạnh đó, theo Điều 623, BLDS 2005 thì:
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
- Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ và do hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.
Có thể nói, những qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Điều 623 BLDS đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do vậy mà các nguyên tắc trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng xuất phát từ những nguyên tắc chung đó. Theo Điều 605 BLDS 2005 việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Việc bồi thường xuất phát từ nguyên tắc công bằng, thiệt hại bao nhiêu thì mức bồi thường sẽ là bấy nhiêu. Và việc bồi thường phải kịp thời cho người bị thiệt hại nhằm khắc phục tình trạng về tài sản của người bị thiệt hại, tạo điều kiện cho họ khắc phục tài sản khi bị thiệt hại. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm những chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Thứ hai, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình. Điều này nhằm tạo ra tính khả thi trong việc thực hiện bồi thường thiệt hại trên thực tế. Vì có rất nhiều trường hợp mà khi mức thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thì họ không thể thực hiện việc bồi thường cho chủ thể kia do không đủ tài chính để chi trả.
Thứ ba, khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Việc thay đổi mức bồi thường sẽ căn cứ vào yêu cầu của các bên và thực tế cần phải sự thay đổi mức bồi thường và do Tòa án xác định. Mức bồi thường có thể tăng hoặc giảm tùy theo việc xác định đó.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Chủ thể bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, tổ chức. Tuy nhiên Bộ luật dân sự chỉ quy định tại Điều 606 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân mà không quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể khác. Do vậy, có thể mặc nhiên hiểu các chủ thể khác gây thiệt hại sẽ được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Căn cứ vào điều 606 BLDS 2005 thì năng lực chịu trách nhiệm bồi thường bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra của cá nhân bao gồm:
Thứ nhất, người đủ từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Bằng tài sản của chính mình.
Thứ hai, người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Thứ ba, người dưới 15 tuổi là chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đó, theo đó cha mẹ của chủ thể có trách nhiệm bồi thường trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự trước tòa án. Nếu tài sản của cha, mẹ của người ở độ tuổi này mà không đủ tài sản để bồi thường mà người con chưa thành niên có tài sản riêng thì lấy tài sản của người con đó để bồi thường phần còn thiếu đó. Người trong độ tuổi này là chủ thể có trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì không phải bồi thường mà trách nhiệm bồi thường thuộc về cha, mẹ của người đó. Quy định này nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng cho người bị thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm bồi thưởng thiệt hai do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Điều kiện phát sinh trách nhiệm:
- Có thiệt hại xảy ra:Thiệt hại được hiểu là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không bao gồm thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Bởi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại là do sự hoạt động của các phương tiện cơ giới, do vậy những thiệt hại gây ra cho người bị thiệt hại là tài sản, sức khỏe, tính mạng. Hơn nữa, do tính chất nguy hiểm “cao độ” nên nguồn nguy hiểm cao độ có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai. Có thể là chính chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành hay cả những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” - là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ đến nguồn nguy hiểm đó nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
- Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:Ngay tên của điều luật, Điều 623 BLDS 2005 đã xác định: “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Do đó cần xác định rõ: Thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ mà không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh thông thường.Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp thì chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “đang hoạt động”. Còn trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái “tĩnh” thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Tuy nhiên, trong nguồn nguy hiểm cao độ luôn luôn tiềm ẩn những rủi ro nhất định có thể xảy ra nên có những sự kiện bất ngờ mà con người không thể biết trước và phòng tránh được. Ví dụ: Do mưa làm cho cột điện bị nhiễm điện, người nào không biết đi qua đó bị nhiễm điện chết. Trong trường hợp này thiệt hại xảy ra là do sự kiện bất ngờ, bất khả kháng chứ không phải do hành vi của con người gây ra và con người cũng không sao kiểm soát và phòng ngừa hiệu quả hết được. Vì thế không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra:Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay không có trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Như vậy, để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì tự thân sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại. Còn trong trường hợp người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi trong việc sử dụng chúng đã gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh ngay cả khi chủ sở hữu hay người sử dụng nguồn nguy hiểm không có. Theo khoản 3 Điều 623 BLDS qui định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì:
“Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác”
Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
Xác định trách nhiệm
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ; - Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định ai trong số các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể.
Điều 165 BLDS 2005 quy định Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”. Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên người ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác.
Vì thế, khi xác đinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chúng ta có thể xem xét ở các trường hợp sau:
Thứ nhất, chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Theo khoản 1 điều 623 BLDS 2005 thì: “...Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.” Quy định này đòi hỏi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, người được trông coi, chiếm hữu, sử dụng, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật trong từng trường hợp, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Như vậy, pháp luật cũng đã quy định rất chi tiết nghĩa vụ của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
Thứ hai, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu (mượn, thuê), sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Theo khoản 2 điều 623 BLDS 2005 thì trong trường hợp này, người người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu (mượn, thuê), sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ sẽ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Những thỏa thuận khác ở đây không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Thứ tư, trường hợp chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, trong những trường hợp sau thì trách nhiệm bồi thường được loại trừ (theo quy định tại khoản 3 điều 623 BLDS 2005).
+ Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
+ Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Luật gia Nguyễn Minh Hải - Công ty Luật TNHH Everest
Bình luận