Phương pháp nghiên cứu cảu lý luận về nhà nước và pháp luật là những nguyên tắc và cách thức hoạt động khoa học nhằm đạt tới chân lý khách quan dựa trên cơ sở của sự chứng minh khoa học.
1. Phương pháp nghiên cứu
Lý luận về nhà nước và pháp luật có cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận khoa học chung cho mọi khoa học, được vận dụng trong tất cả các quá trình, các giai đoạn nghiên cứu. Nội dung của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là những quy luật, những phạm trù của phép biện chứng duy vật và những nguyên tắc của phép biện chứng lôgic như: tính khách quan, tính toàn diện, tính lịch sử cụ thể...
- Nguyên tắc về tính khách quan trong nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải xem xét sự vật và đối tượng nghiên cứu đúng như nó có, không thêm bớt, không bịa đặt. Đối với nhà nước và pháp luật đòi hỏi phải nghiên cứu chúng đúng như chúng đã tồn tại trong thực tế khách quan, trong những mối quan hệ hiện thực.
-Nguyên tắc xem xét sự vật một cách toàn diện là một yêu cầu rất quan trọng để làm sáng tỏ bản chất của nhà nước và pháp luật. Vì nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng đặc biệt có quan hệ với tất cả các hiện tượng của thượng tầng kiến trúc cũng như hạ tầng cơ sở; cho nên nếu không hiểu mối quan hệ giữa chúng sẽ dẫn tới sự nhận thức phiến diện, sai lệch về bản chất của chúng. Một số học giả khi nghiên cứu nhà nước và pháp luật lại tách rời hai hiện tượng này với cơ sở hạ tầng nên không thể giải thích được một cách khoa học bản chất và những đặc trưng cơ bản của chúng.
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu riêng,
Để làm sáng tỏ bản chất của nhà nước và pháp luật còn đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử cụ thể, gắn chúng với những giai đoạn phát triển nhất định. V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng: "Trong khoa học phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng theo quan điểm của sự phát triển đó để xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào".
Ngoài các phương pháp nghiên cứu chung ở trên, lý luận về nhà nước và pháp luật còn vận dụng các phương pháp riêng để nghiên cứu. Các phương pháp riêng thông thường được sử dụng để .giải quyết một số nhiệm vụ trong quá trình nghiên cứu, để giải thích, đánh giá và kết luận về một số vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật trên cơ sở áp dụng các phương pháp chung.
- Phương pháp xã hội học (như theo dõi, phỏng vấn, thăm dò dư luận xã hội...) để nắm được những thông tin, tư liệu thực tiễn, thể hiện những quan niệm, quan điểm trong xã hội về các vấn đề khác nhau của nhà nước và pháp luật, từ đó hình thành hoặc kiểm nghiệm lại những luận điểm, quan điểm, khái niệm, kết luận của lý luận về nhà nước và pháp luật. Ví du: để nghiên cứu về ý thức pháp luật, ý thức chính trị, văn hoá pháp luật, đánh giá hiệu quả hoạt động của nhà nước và tác dụng của pháp luật... cần phải sử dụng phương pháp xã hội học.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng rộng rãi, thường xuyên trong quá trình nghiên cứu về nhà nước và pháp luật. Phân tích là phương pháp dùng để chia cái toàn thể hay một vấn đề phức tạp ra thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố đơn giản hơn để nghiên cứu và làm sáng rõ vấn đề. Chẳng hạn, để có thể luận giải được những vấn đề của nhà nước, lý luận phải "tách' nó ra thành các vấn đề cụ thể hơn như đặc điểm, chức năng, hình thức... để nghiên cứu. Hoặc trong mỗi vấn đề lớn đó lại chia ra thành những vấn đề nhỏ hơn để có điều kiện phân tích sâu hơn. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất lại các bộ phận, các yếu tố, các mặt đã được phân tích, vạch ra mối liên hệ giữa chúng nhằm khái quát hóa các vấn đề trong sự nhận thức tổng thể.
- Phương pháp trừu tượng khoa học:phương pháp này có vai trò rất quan trọng trong lý luận về nhà nước và pháp luật. Trừu tượng khoa học là phương pháp tư duy trên cơ sờ tách cái chung ra khỏi cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung. Bằng phương pháp trừu tượng hóa ta có thể vượt qua những hiện tượng có tính hình thức bề ngoài, ngẫu nhiên, thoáng qua, bất ổn định, để đi đến được cái chung mang tính tất yếu, bản chất và ổn định (mang tính quy luật). Là một khoa học lý luận, có nhiệm vụ xây dựng một hệ thống tri thức tổng quát với một hệ khái niệm, phạm trù và những luận điểm cơ bản, lý luận về nhà nước và pháp luật tất yếu phải sử dụng phương pháp trừu tượng khoa học. Phương pháp trừu tượng khoa học và một trong những phương pháp đặc thù của lý luận về nhà nước và pháp luật.
- Phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau trong đó có lý luận về nhà nước và pháp luật. Áp dụng phương pháp so sánh để nghiên cứu về nhà nước và pháp luật sẽ cho phép người nghiên cứu có thể phát hiện ra những điểm giống nhau và khác nhau của các hiện tượng nhà nước và pháp luật đã và đang tồn tại trong lịch sử; đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự đồng nhất và dị biệt đó. Nhờ phương pháp so sánh hệ thống tri thức trong lý luận về nhà nước và pháp luật có được tính khách quan và khoa học.
Khi nghiên cứu về nhà nước và pháp luật cần phải sử dụng kết hợp những phương pháp chung (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) với những phương pháp riêng; không thể chỉ chú ý tới một trong hai nhóm phương pháp đó, hoặc sử dụng chúng một cách tách biệt nhau. Những phương pháp chung là cơ sở, nhưng những phương pháp riêng lại thể hiện tính đặc thù của khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật. Mỗi phương pháp riêng được sử dụng để nghiên cứu về nhà nước và pháp luật chỉ có thể mang lại kết quả tốt khi nó được sử dụng cùng với phương pháp biện chứng duy vật, với tư cách là một trong những hình thức cụ thể hóa của nó và được phát triển trong sự nhận thức khoa học.
2. Sự phát triển của lý luận về nhà nước và pháp luật
Trước khi Chủ nghĩa Mác ra đời (cũng như hiện nay) đã có nhiều học thuyết khác nhau về nhà nước và pháp luật. Nhưng do sai lầm về phương pháp luận, bị hạn chế bởi quan điểm giai cấp hẹp hòi và với mục đích phục vụ lợi ích của giai cấp bóc lột, cho nên các học thuyết đó không giải thích được một cách đúng đắn bản chất, chức năng xã hội của nhà nước và pháp luật, không xác định được đúng vai trò của chúng trong hệ thống các hiện tượng của đời sống xã hội.
Mác và Ăng ghen là những người đầu tiên đề xướng học thuyết khoa học về nhà nước và pháp luật, một học thuyết có bản chất thể hiện quan điểm biện chứng duy vật, coi nhà nước và pháp luật là những hiện tượng xã hội tồn tại trong lịch sử gắn liền với những điều kiện của xã hội có giai cấp, một học thuyết khoa học chứa đựng các tiêu chuẩn lịch sử, lôgic và thực tiễn.
Sự cống hiến của Mác và Ănghen vào việc phát triển học thuyết về nhà ước và pháp luật thể hiện ở chỗ Mác và Ănghen đã đề xướng và vận dụng một cách sáng tạo phương pháp luận thực sự khoa học để nghiên cứu về nhà nước và pháp luật. Khác với các học thuyết về nhà nước và pháp luật trước kia, Mác và Ănghen trong học thuyết của mình đã chứng minh rằng nhà nước và pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với các quan hệ kinh tế. Các quan hệ vật chất đó giữ vai trò quyết định đối với sự ra đời và phát triển của nhà nước và pháp luật.
Mác và Ănghen đã chỉ rõ bản chất của nhà nước và pháp luật, vạch ra những nguyên nhân làm phát sinh nhà nước và pháp luật, đã chứng minh rằng nhà nước và pháp luật chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia thành những giai cấp đối kháng và những mâu thuẫn giai cấp đối kháng đã phát triển tới mức không thể điều hòa được. Nhà nước là một bộ máy đặc biệt, là công cụ do giai cấp thống trị tổ chức ra để duy trì sự thống trị của mình, để bắt các giai cấp khác trong xã hội phải phục tùng giai cấp mình. Pháp luật là các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Mác và Ănghen đã xây dựng học thuyết về cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả tất yếu của sự phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa với những đối.kháng giai cấp của nó. Giai cấp vô sản là động lực và là người lãnh đạo cuộc cách mạng đó vì vậy nó phải trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Muốn biến mình thành giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp vô sản phải dùng bạo lực cách mạng lật đổ sự thống trị của giai cấp thống trị, đập tan bộ máy nhà nước cũ, xây dựng bộ máy nhà nước mới của giai cấp mình, thiết lập và thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Chỉ có bằng cách đó giai cấp vô sản mới có thể xây dựng được xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ áp bức bóc lột, bảo đảm công bằng xã hội.
Chuyên chính vô sản là cần thiết, không thể thiếu được. Đó là vấn đề căn bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa Chuyên chính vô sản sẽ tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa, công đi để thực hiện chuyên chính vô sản cũng sẽ tồn tại trong suốt thời kỳ đó. Nhưng nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa không tồn tại mãi mãi mà sẽ tiêu vong và sẽ đến lúc xã hội sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật sự của nó lúc bấy giờ, xếp vào "Viện bảo tàng đồ cổ bên cạnh cái xe kéo sợi và cái rìu bằng đồng".
Học thuyết về nhà nước và pháp luật do Mác và Ănghen đề xướng thể hiện lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức và bóc lột. Nó đồng thời là cương lĩnh đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động nhằm xóa bỏ nhà nước và pháp luật của giai cấp bóc lột, xây dựng nhà nước và pháp luật mới xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin là người kế tục sự nghiệp của Mác và Ănghen đã phát triển, bổ sung và làm phong phú thêm học thuyết của Mác về nhà nước và pháp luật trong thời đại mới (thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời đại mà vấn đề giai cấp vô sản giành chính quyền đã trở thành vấn đề hiện thực, căn bản của sự phát triển xã hội). V.I.Lênin đã đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ học thuyết của Mác về nhà nước và pháp luật, chống lại các quan điểm xuyên tạc Chủ nghĩa Mác của bọn cơ hội, xét lại và bọn vô chính phủ. Người khẳng định rằng, chỉ người nào mở rộng việc thừa nhận đấu tranh giai cấp đến mức thừa nhận chuyên chính vô sản thì mới là người Mác-xít.
Trong nhiều tác phẩm của mình V.I.Lênin đã phát triển học thuyết của Mác tới một trình độ phù hợp với những điều kiện lịch sử mới, đã bổ sung nhiều luận điểm quan trọng về việc giai cấp vô sản tiến hành cách mạng giành lấy chính quyền, cũng như tổ chức chính quyền và xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin là người phát hiện ra quy luật phát triển không đồng đều của các nước tư bản chủ nghĩa khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn tột cùng của nó, đến chủ nghĩa đế quốc Người đã đi đến kết luận cách mạng vô sản có thể nổ ra trong một số nước và thậm chí trong một nước tại khâu yếu nhất của hệ thống tư bản chủ nghĩa.
V.I.Lênin cũng là người phát hiện ra Xô Viết là một hình thức chuyên chính vô sản, coi đó là hình thức phù hợp nhất đối với giai cấp công nhân Nga để tổ chức và xây dựng chính quyền vô sản trong điều kiện của nước Nga. V.I.Lênin đã xây dựng học thuyết về liên minh công nông, coi liên minh công nông là nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản, đã nêu những luận điểm về nhà nước liên bang, về dân chủ xã hội chủ nghĩa, về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước và với hệ thống chuyên chính vô sản, về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đối với vấn đề pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, V.I Lênin là người tổ chức lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, là người tổ chức và lãnh đạo việc xây dựng hệ thống pháp luật kiểu mới, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong hoạt động lý luận và thực tiễn của mình, .V.I.Lênin luôn coi lý luận về nhà nước và pháp luật là cơ sở khoa học để vạch ra đường lối lãnh đạo việc tổ chức và củng cố chính quyền, xây dựng pháp luật, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ Tịch đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đã có những cống hiến nhất định vào việc phát triển làm phong phú thêm học thuyết đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam đã khẳng định "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của cách mạng Việt Nam thấm nhuần quan điểm bạo lực cách mạng, ngay từ hội nghị trung ương lần thứ VIII (năm 1941) Đảng ta khẳng định "Cách mạng Việt Nam muốn giành dược thắng lợi thì nhất thiên phải vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền và sau khi đánh đuổi được đế 'quốc Pháp - Nhật sẽ thành lập một chính phủ mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chính phủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Quốc dân đại hội cử lên". Như vậy, Đảng đã chỉ rõ giai cấp vô sản Việt Nam muốn biến mình thành giai cấp thống trị phải dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ, xây dựng bộ máy nhà nước mới của mình. Hình thức phù hợp để tổ chức chính quyền vô sản trong điều kiện Việt Nam là hình thức cộng hòa dân chủ.
Trong chỉ đạo đấu tranh cách mạng giành chính quyền Đảng ta đã có những sáng tạo đáng chú ý như: Chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh để thu hút các lực lượng yêu nước, cô lập kẻ thù; dùng hình thức ủy ban (ủy ban nhân dân cách mạng, ủy ban giải phóng...) trong vùng giải phóng để "thủ tiêu những hình thức bóc lột của bọn phát xít quân phiệt và bè lũ tay sai của chúng" để cho nhân dân "tập dần những công việc hành chính... làm bước chuyển tiếp để nhảy lên chính thể cộng hòa dân chủ dùng phương thức Quốc dân đại hội để thành lập chính phủ trong khi chưa nắm được chính quyền, chưa cho phép tổng tuyển cử ...
Những sáng tạo nói trên cũng đã được vận dụng để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam Việt Nam.
Sau khi được hoàn toàn giải phóng, miền Bắc tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, những nguyên lý Mác-lênin về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và Hồ Chủ Tịch vận dụng sáng tạo vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) không ngừng được củng cố và phát triển trở thành công cụ sắc bén để xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, chi viện cho cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng ngày càng hoàn thiện, phát huy tác dụng to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới của đời sống xã hội.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề nhà nước và pháp luật đã trở thành một trong những nội dung quan trọng nhất trong hoạt động lãnh đạo của Đảng ta. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI, VII, VIII đã nêu ra nhiều vấn đề, đưa ra nhiều quan điểm, kết luận quan trọng về dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân lao động, xác định bản chất của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền làm chủ của nhân dân lao động, vai trò của nhà nước, pháp luật và pháp chế trong thời kỳ cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ..
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, trên cơ sở tổng kết những bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước trong những năm qua đã nhấn mạnh phải "tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng ... thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giảm, gọn nhẹ và hoạt dộng có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật quản lý".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định rõ tính chất của Nhà nước ta là “nhà nước xã hội chủ nghĩa lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với dân hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc của nhân dân". Những quan điểm đó đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992, tại các điều.2, 3, 4, 5, 6, 12...Tại Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện đổi mới và hơn nửa thế kỷ xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định rõ năm quan điểm và những định hướng cơ bản về tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là những đóng góp quan trọng thể hiện rõ sự kiên định và tính sáng tạo của Nhà nước và nhân dân ta trong việc bảo vệ và phát triển học thuyết Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
3. Ý nghĩa và yêu cầu của môn học
Lý luận về nhà nước và pháp luật là bộ môn khoa học pháp lý cơ sở. Những vấn đề được trình bày và kết luận trong nội dung môn học là hệ thống tri thức chung, sâu sắc và toàn diện về nhà nước và pháp luật, là cơ sở để hình thành quan điểm hệ thống khi tiếp cận các lĩnh vực cụ thể của khoa học pháp lý. Vì vậy, cần phải nắm vững kiến thức của lý luận trước khi nghiên cứu các vấn đề khác của khoa học pháp lý. Bởi vì, như V.I.Lênin viết: "Người nào tiếp cận những vấn đề riêng mà trước đó không giải quyết những vấn đề chung thì trong mỗi bước đi sẽ không thể tránh khỏi những vấn đề chung đó một cách vô thức".
Lý luận về nhà nước và pháp luật là hệ thống tri thức khoa học, vì vậy nó đòi hỏi khi xem xét, nghiên cứu và kết luận các vấn đề, phải dựa trên cơ sở của quan điểm biện chứng khoa học, phải đặt nhà nước và pháp luật trong mối liên hệ qua lại với các hiện tượng khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, đạo đức, ý thức xã hội, ý thức pháp luật để một mặt thấy rõ sự tác động và ảnh hưởng của các yếu tố đó đối với nhà nước và pháp luật; mặt khác làm sáng tỏ tính độc lập tương đối, vai trò to lớn của nhà nước và pháp luật trong sự tác động đến quá trình phát triển của xã hội. Phải nghiên cứu nhà nước và pháp luật một cách toàn diện, theo quan điểm phát triển, gắn những vấn đề chung về nhà nước và pháp luật với thực tiễn để trả lời những câu hỏi của thực tiễn và phải coi thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh giá sự đúng đắn của các luận điểm khoa học, là tiêu chuẩn để xác định hiệu quả của chúng.
Trong xã hội có giai cấp mọi lý luận suy cho cùng đều phục vụ cho lợi ích của một giai cấp, một liên minh giai cấp, hay một lực lượng xã hội nhất định. Lý luận về nhà nước và pháp luật giải thích rõ bản chất nhà nước và pháp luật, chứng minh một cách khoa học những quy luật khách quan của sự vận động và phát triển tất yếu của chúng. Những điều đó phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên, nó trở thành vũ khí lý luận để giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành cách mạng giải phóng khỏi áp bức bóc lột, xây dựng một kiểu nhà nước và pháp luật mới phục vụ lợi ích của mình. Khi nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đòi hỏi phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dựa trên cơ sở của luận cứ khoa học để giải thích vấn đề; phải không ngừng phát triển, bổ sung và làm phong phú thêm học thuyết Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, vận dụng một cách sáng tạo các nguyên lý và quan điểm đó vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước và của Việt Nam. Mặt khác phải đấu tranh với những quan điểm sai lầm, duy tâm, phản khoa học, những luận điệu xuyên tạc các nguyên lý khoa học về nhà nước và pháp luật để bảo vệ sự đúng đắn và tính khoa học của học thuyết Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Tổ bộ môn Luật Kinh tế - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp
Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài 19006198.
Bình luận