-->

Luật sư tư vấn: Thông báo chấm dứt hợp đồng trước 45 có phải bồi thường chi phí đào tạo không?

Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản...

Hỏi: Tháng 12/2015, tôi trúng tuyển vào làm nhân viên tại công ty và được cử đi đào tạo 1 tháng với mức lương đào tạo là 5 triệu. Tôi đã kí một cam kết sẽ làm việc cho công ty 2 năm sau khi kết thúc hợp đồng đào tạo. Nếu không đủ thời gian trên, tôi sẽ phải bồi thường 50 triệu đồng. Tháng 10/2016, tôi vẫn chưa được ký hợp đồng. Tôi đã nộp đơn xin nghỉ việc vào ngay 20/10/2016 và sẽ bắt đầu thôi việc từ tháng 11/2016. Như vậy chưa đủ 45 ngày, nhưng giám đốc đã cho phép nghỉ. Công ty làm vậy có đúng không? (Lê Quang Duy - Ninh Bình)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, về hợp đồng lao động.

Điều 16 Bộ luật lao động 2012 có quy định:

"1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói".

Với trường hợp của bạn, công việc bạn trúng tuyển vào công ty là công việc yêu cầu cần có trình độ và phải đi đào tạo 1 tháng. Như vậy không thể coi đây là công việc tạm thời có thời hạn dưới 3 tháng nên buộc công ty buộc phải ký hợp đồng lao động với bạn. Trường hợp bạn đã đi đào tạo về mà công ty vẫn chưa ký hợp đồng lao động với bạn là công ty đang vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể về mức xử phạt bạn tham khảo tại bài tư vấn dưới đây:

Việc giữa bạn và công ty chưa giao kết hợp đồng lao động nhưng bạn đã đi làm cho công ty trên từ tháng 10 đến tháng 2/2015, thì coi như giữa hai bên đã xác lập quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động.

Thứ hai, bạn có phải bồi thường hay không?

Theo thông tin bạn đưa ra thì bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng pháp luật do không tuân thủ thời gian báo trước khi chấm dứt hợp đồng lao động và đã vi phạm cam kết về thời gian làm việc sau đào tạo.

Theo quy định tại Điều 43 Bộ luật lao động 2012 về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

"1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này".

Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, bạn sẽ phải bồi thường cho công ty khoản tiền tương ứng với tiền lương của bạn trong những ngày không báo trước và chỉ phải hoàn trả lại cho công ty chi phí đào tạo. Chi phí đào tạo theo quy định tại khoản 3 Điều 62 BLLĐ bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài.

Như vậy, bạn sẽ phải bồi thường khoản tiền số ngày không báo trước và chỉ phải hoàn trả chi phí đào tạo chứ không phải bồi thường chi phí đào đạo. Quy định người lao động phải bồi thường là trái quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.