Kỳ họp Quốc Hội là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc Hội, nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực Nhà nước của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của tập thể đại biểu Quốc Hội và quyền giám sát của Quốc Hội đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Địa vị pháp lý của Quốc Hội không những chỉ được nói lên từ cách thức thành lập, từ thẩm quyền, từ cơ cấu, mà còn được khắc hoạ lên từ những hoạt động. Xuất phát từ đặc điểm các đại biểu Quốc Hội, những thành viên Quốc Hội được bầu từ các đơn vị (hạt) bầu cử có địa vị pháp lý như nhau, cho nên các đại biểu Quốc Hội có nhiệm vụ, quyền hạn như nhau.
Vì vậy, những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc Hội phải có các đại biểu tham gia quyết định, phải bàn bạc, và quyết định theo đa số. Vì lẽ đó nhiều người còn gọi Quốc hội là cơ quan "nghị họp".
Kỳ họp Quốc Hội là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc Hội, nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực Nhà nước của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, trí tuệ của tập thể đại biểu Quốc Hội và quyền giám sát của Quốc Hội đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Quốc Hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, một kỳ vào giữa năm và một kỳ vào cuối năm. Ngoài các kỳ họp thường lệ, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, có thể triệu tập Quốc Hội họp bất thường theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc Hội.
So với hình thức tổ chức hoạt động khác của Quốc Hội thì kỳ họp là hình thức hoạt động có ưu thế hơn cả. Chỉ có kỳ họp, Quốc Hội mới thông qua được những quyết định chính thức của mình - Các văn bản pháp luật, kể cả Hiến pháp đến các nghị quyết khác. Nhiều mâu thuẫn phát sinh giữa các cơ quan Nhà nước, về mặt Nhà nước theo tinh thần của Hiến pháp không thể giải quyết được một cách chính thức ở đâu ngoài kỳ họp của Quốc Hội. Các hình thức hoạt động khác như hoạt động của Hội đồng, của các Uỷ ban - chỉ là hình thức trợ giúp, để trên kì họp Quốc Hội thực hiện một cách chính xác nhiệm vụ quyền hạn của Quốc Hội. Dưới góc độ tính toàn quyền, tập trung quyền lực vào trong tay Quốc Hội, thì nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội thì cũng mang tính giúp việc cho Quốc Hôi.
Chính trên kỳ họp, quyền lực của Quốc Hội được thể hiện một cách đầy đủ nhất, mọi vấn đề quan trọng nhất của đất nước thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc Hội được Hiến pháp quy định tại Điều 84, chỉ được Quốc Hội thảo luận và chính thức quyết định tại kỳ họp của Quốc Hội.
Để bảo đảm cho kỳ họp có hiệu quả thực sự, mọi kỳ họp phải tiến hành theo một trình tự bắt buộc. Trình tự tiến hành các kỳ họp của Quốc Hội được quy định một số điểm chính các điều khoản của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc Hội. Những quy định này được chi tiết hoá trong Nội quy kỳ họp Quốc Hội. Tiến trình kỳ họp thường được chia làm ba giai đoạn: Chuẩn bị kỳ họp, thảo luận, và thông qua các dự án. Ngoài trình tự trên, Nội quy kỳ họp có quy định cách thức tiến hành kỳ họp thứ nhất, trình tự tiến hành chất vấn, trả lời chất vấn và trình tự lập pháp.
Để đảm bảo chất lượng kỳ họp, việc chuẩn bị đóng vai trò rất to lớn. Việc chuẩn bị kỳ họp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, do nhiều cơ quan đảm nhiệm như xây dựng các dự án trình Quốc Hội, điều tra, nghiên cứu, thu thập tình hình thực tế và ý kiến của nhân dân về các vấn đề liên quan đến kỳ họp. Việc chuẩn bị kỳ họp thu hút sự tham gia của đông đảo các cơ quan Nhà nước, của Hội đồng và các ủy ban của Quốc Hội, của bản thân mỗi đại biểu Quốc Hội.
Trước khi triệu tập kỳ họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp; xem xét việc chuẩn bị các dự án và rà soát lại các khâu chuẩn bị.
Dự kiến chương trình kỳ họp phải được gửi đến các đại biểu chậm nhất là một tháng trước khi Quốc Hội họp để các đại biểu nghiên cứu và góp ý kiến.
Việc triệu tập kỳ họp thường lệ của Quốc Hội phải được quyết định và thông báo chậm nhất là hai mươi ngày (đối với các kỳ họp bất thường là năm ngày) trước khi Quốc Hội họp. Chậm nhất là mười lăm ngày trước khi Quốc Hội họp, dự kiến chương trình kỳ họp thường lệ được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chương trình làm việc của Quốc Hội do Quốc hội quyết định.
Thứ hai, trình tự xem xét và thông qua dự án
Tại kỳ họp Quốc hội thông qua các dự án kế hoạch Nhà nước, các báo cáo, dự án luật và dự án khác. Các dự án thường được xem xét theo trình tự sau:
Để Quốc hội xem xét và quyết định cơ quan hoặc người trình dự án phải trình bày trước Quốc Hội. Khi trình bày cần làm rõ yêu cầu xây dựng dự án, nội dung cơ bản của dự án, các bước chuẩn bị đã tiến hành, tài liệu tham khảo, việc chỉnh lý dự thảo và toàn văn dự thảo. Đối với dự án luật thì do cơ quan hoặc người trình dự án quy định tại Điều
87 của Hiến pháp trình bày. Đối với dự án kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước thì thường là do Chính phủ trình bày.
Sau khi nghe cơ quan hoặc người trình dự án trình bày, Quốc Hội nghe thuyết trình viên của Hội đồng hoặc ủy ban của Quốc Hội được giao thẩm tra dự án, báo cáo ý kiến của Hội đồng hoặc ủy ban về dự án đó. Nếu là kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội khoá mới thì thuyết trình viên do Chủ tịch Quốc Hội khoá trước chỉ định.
Thuyết trình viên phải nêu lên những mặt được và những tồn tại của dự án, đồng thời phát biểu ý kiến về việc có thể chấp nhận dự án được hay không. Nếu cần khắc phục thì khắc phục những điều nào trong dự án.
Các dự án được Quốc hội xem xét và thảo luận ở tổ hoặc tập trung tại hội trường. Càng ngày, hình thức thảo luận tập trung tại hội trường càng được sử dụng, thảo luận hội trường trở thành sinh hoạt sôi nổi và tập trung của Quốc Hội. Đây là nơi va chạm của các quan điểm giữa quyền lợi cục bộ và toàn cục. Kết quả cuối cùng phương án được lựa chọn là phương án tối ưu hợp với đa số. Thảo luận ở tổ hay ở hội trường được quyết định phụ thuộc vào mức độ phức tạp của vấn đề. Điều quan trọng nhất là phải làm sao tạo điều kiện để các đại biểu phát biểu hết và thể hiện đúng ý kiến của mình, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà đại biểu là người đại diện.
Biểu quyết là hình thức thể hiện quan điểm của đại biểu Quốc Hội về một vấn đề, một dự án. Biểu quyết cũng là cách thức thấm dứt việc thảo luận.
Các dự án có thể được Quốc Hội thông qua bằng cách biểu quyết từng vấn đề; Biểu quyết những vấn đề được đưa ra thảo luận , sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc biểu quyết toàn bộ một lần. Vấn đề cần biểu quyết do Quốc hội quy định.
Các kỳ họp Quốc Hội kết thúc bằng việc Quốc Hội thông qua các quyết định của mình dưới dạng luật và nghị quyết.
Luật, nghị quyết của Quốc Hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc Hội, việc rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ Quốc Hội thì phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành. Luật và nghị quyết của Quốc Hội phải có chữ ký của Chủ tịch Quốc Hội, và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày được thông qua.
Luật là một loại văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao ban hành, có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp, nhằm mục đích cụ thể hoá Hiến pháp, dựa trên cơ sở của Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất ổn định liên quan đến quyền lợi của mọi công dân, đến cộng đồng quốc gia, đến nhiều tầng lớp dân cư, trong nhiều lĩnh vực của đời sống Nhà nước và xã hội.
Nghị quyết là văn bản được Quốc Hội ban hành có hiệu lực pháp lý dưới luật và Hiến pháp nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng thuộc chính sách quốc gia và những vấn đề thường mang tính nhất thời, áp dụng cho trường hợp cụ thể không mang tính quy phạm. Ví dụ, các nghị quyết chia tỉnh, thành lập bộ...
Các kỳ họp của Quốc hội thường có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội của quốc gia. Các kỳ họp Quốc hội xem xét và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Trong đó kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc Hội có ý nghĩa quan trọng gọi là kỳ họp đặc biệt, bắt đầu cho một khoá họp của Quốc hội.
Bắt đầu từ kỳ họp này các cơ cấu tổ chức và người đứng đầu các cơ quan Nhà nước Trung ương được cơ cấu lại. Người ta thường gọi kỳ họp này là kỳ họp tổ chức. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc Hội do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc Hội khoá trước khai mạc và chủ toạ cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch Quốc hội khoá mới.
Trong phiên họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội, Quốc Hội bầu ra Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu để tiến hành thẩm tra tư cách của các đại biểu Quốc hội .
Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội, Quốc Hội tiến hành bầu cử các chức danh lãnh đạo cao cấp của Nhà nước. Bằng cách bỏ phiếu kín, Quôc Hội bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc Hội, các phó Chủ tịch Quốc hội, các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, Thủ tướng Chính phủ; Phê chuẩn việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Thư ký Hội đồng Dân tộc; Chủ nhiệm các Uỷ ban Thường trực Quốc Hội, các uỷ viên Hội đồng Dân tộc, các thành viên khác của các uỷ ban của Quốc hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ ba, chất vấn và trả lời chất vấn
Chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền giám sát của Quốc Hội. Chất vấn thực sự phát huy tác dụng tại các kỳ họp Quốc Hội. Chất vấn bao giờ cũng là một nội dung chương trình của các kỳ họp Quốc Hội. Trong chương trình kỳ họp Quốc Hội dành một thời gian thích đáng cho chất vấn và trả lời chất vấn. Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc Hội, của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội đòi hỏi một cơ quan, một nhà chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Chất vấn cũng là một dạng câu hỏi nhưng chất vấn hoàn toàn khác câu hỏi bình thường. Nếu câu hỏi thường đặt ra chỉ nhằm mục đích để thu thập thông tin thì chất vấn được đặt ra nhằm để quy kết trách nhiệm. Khi chất vấn, vấn đề nêu lên đã được đại biểu điều tra, nghiên cứu kỹ và đã có chủ định về trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Khi chất vấn đã nêu lên, buộc cơ quan hoặc người bị chất vấn dẫn đến kết luận áp dụng hay không áp dụng các biện pháp trách nhiệm, kỷ luật nhà nước đối với cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được quy định rõ trong Hiến pháp, luật và các văn bản khác.
Đại biểu Quốc Hội, Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội có quyền chất vấn Chính phủ và các thành viên của Chính phủ. Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Khi Quốc Hội họp, đại biểu Quốc hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Quốc Hội để Chủ tịch Quốc hội chuyển cho các cơ quan hoặc người bị chất vấn. Cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc Hội tại kỳ họp đó của Quốc Hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội quyết định thời gian trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc Hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc Hội. Quốc Hội có thể bố trí thời gian để các đại biểu phát biểu ý kiến về việc trả lời chất vấn. Khi cần thiết, Quốc Hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của những cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Như các phần trên đã nêu, lập pháp là một chức năng cơ bản của Quốc Hội. Không một cơ quan Nhà nước nào trong bộ máy Nhà nước ngoài Quốc Hội có quyền ban hành các quy phạm luật có hiệu lực pháp lý tối cao, buộc mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức xã hội và mọi công dân sống trên lãnh thổ nước ta đều phải thi hành.
Để các văn bản luật thực sự thể hiện ý chí của Quốc hội, của nhân dân thông qua các đại biểu được nhân dân bầu ra, hoạt động lập pháp phải tuân theo những quy định nhất định. Những quy định này được gọi là trình tự lập pháp. Trình tự này được quy định trong Hiến pháp, trong Luật tổ chức Quốc Hội và trong Nội quy kỳ họp Quốc Hội.
Quy trình này được bắt đầu bằng sáng kiến pháp luật. Điều 87 Hiến pháp quy định: Chủ Tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc Hội.
Đại biểu Quốc Hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc Hội. Quyền trình dự án luật được thực hiện dưới dạng trình dự án luật mới, dự án luật sửa
đổi luật hiện hành.
Quy định trên khác với Hiến pháp 1980, đại biểu Quốc Hội không chỉ có quyền trình dự án luật mà còn có quyền trình những kiến nghị luật.
Thực tế cho thấy hơn 90% tổng số các dự án luật đều do Hội đồng Bộ trưởng trước đây và Chính phủ theo hiến pháp hiện hành trình. Tỷ lệ này cũng tương đương với Nghị viện của nhiều nước tư bản. Trong số 25 luật được Quốc Hội khoá VIII thông qua có tới 24 luật do Hội đồng Bộ trưởng trình dự án(1). Để nâng cao chất lượng các văn bản luật và tăng cường tính chủ động trong công tác chuẩn bị các dự án luật của các cơ quan, các tổ chức xã hội và của các đại biểu Quốc Hội, Hiến pháp quy định Quốc Hội phải xây dựng chương trình lập pháp của mình và cho cả Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.
Để tạo cơ sở cho hoạt động lập pháp của Quốc Hội đi vào nền nếp, có kế hoạch, Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc Hội quy định nhiệm vụ của Quốc Hội là quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả khoá Quốc Hội và chương trình hàng năm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.
Việc thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn quan trọng vì nó giúp cho Quốc Hội chủ động xem xét, ban hành văn bản luật theo chương trình đã được quyết định, làm cho hoạt động lập pháp của Quốc hội thống nhất với chương trình lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội cùng chương trình lập quy của Chính phủ.
Luật tổ chức Quốc Hội không quy định cụ thể nội dung của chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Nhưng thực tế chuẩn bị và thực hiện các kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh trong thời gian qua, chương trình lập pháp thường nêu rõ:
Danh mục các văn bản luật, pháp lệnh ban hành mới hoặc sửa đổi; Cơ quan, cá nhân, tổ chức trách nhiệm soạn thảo và trình Quốc hội; Hội đồng Dân tộc và Uỷ ban của Quốc Hội chịu trách nhiệm thẩm tra, làm báo cáo trình Quốc Hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Thời điểm ban hành văn bản...
Dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuẩn bị phải được sự tham gia đóng góp ý kiến của các ngành liên quan. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội với tư cách là cơ quan trình Quốc Hội quyết định chương trình xây dựng luật, đánh giá tính khả thi và sự cần thiết ban hành các văn bản, đồng thời có kế hoạch ưu tiên điều kiện vật chất và tập trung trí tuệ cho việc soạn thảo những văn bản pháp luật, pháp lệnh có tính cấp bách đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội.
Sau khi xây dựng xong dự án luật, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội phải chuyển dự án về Uỷ ban pháp luật và các Uỷ ban khác có liên quan xem xét, thẩm tra trước. Trên cơ sở thảo luận dự án Uỷ ban pháp luật và các Uỷ ban khác có liên quan chuẩn bị báo cáo thẩm tra dự án bằng tờ trình trước Quốc Hội.
Các kiến nghị về luật của đại biểu Quốc Hội phải được chuyển về Uỷ ban pháp luật hoặc các Uỷ ban khác có liên quan để các Uỷ ban này nghiên cứu trước.
Chức năng chủ yếu của Quốc Hội là làm luật, do vậy các dự án luật không phải chỉ do Uỷ ban pháp luật chịu trách nhiệm thẩm tra, mà các Uỷ ban khác và Hội đồng dân tộc trong phạm vi, lĩnh vực được phân công cũng có trách nhiệm thẩm tra, đóng góp ý kiến. Lẽ đương nhiên, với tư cách là cơ quan chuyên giúp Quốc Hội về lĩnh vực lập pháp, các Uỷ ban khác phải chịu trách nhiệm thẩm tra về mặt nội dung, còn kỹ thuật lập pháp do Uỷ ban pháp luật đảm nhiệm.
Sau khi xem xét, thảo luận dự án, Uỷ ban pháp luật, các Uỷ ban khác có liên quan làm báo cáo thẩm tra trình Quốc hội. Báo cáo này còn gọi là "Báo cáo thuyết trình" hay còn gọi là Báo cáo thẩm tra dự án. Nội dung phải nêu rõ quan điểm của mình về sự cần thiết của dự án, những vấn đề, những điều khoản cần phải có sự thảo luận kỹ của Quốc hội, và ý kiến của Uỷ ban (Hội đồng) về những vấn đề đó.
Giai đoạn trình dự án luật được kết thúc bằng việc các chủ thể sáng kiến pháp luật đọc "tờ trình" dự án trước Quốc hội. Nội dung của "tờ trình" phải nêu rõ sự cần thiết của dự án luật, tổng quan những quy phạm pháp luật đã có từ trước đến nay về lĩnh vực mà dự án luật yêu cầu điều chỉnh. Những nội dung tư tưởng chính của dự án và quá trình chuẩn bị dự án.
Sau khi nghe báo cáo của cơ quan sáng quyền lập pháp, Quốc Hội nghe "Báo cáo thẩm tra" của Uỷ ban pháp luật và của các Uỷ ban thường trực Quốc Hội có liên quan.
Cách thức thảo luận có thể được Quốc Hội quyết định cho từng dự án. Quốc Hội có thể thảo luận từng chương từng điều của dự án hoặc có thể thảo luận từng vấn đề có mâu thuẫn.
Luật cũng như các nghị quyết khác của Quốc Hội phải được quá nửa tổng số đại biểu
Quốc Hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp thông qua hoặc sửa đổi Hiến pháp.
Với tính chất quan trọng của dự án luật, một khi đã được thông qua, có tác dụng ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều ban ngành trong bộ máy Nhà nước, nên việc thông qua phải thận trọng. Chính vì vậy, nhiều dự án được Quốc Hội xem xét trong nhiều kỳ họp khác nhau. Thậm chí còn đưa ra cho nhân dân đóng góp ý kiến. Dựa trên sự tham gia đóng góp của nhân dân và các ý kiến thảo luận của Quốc Hội tại các kỳ họp trước, dự án được chuẩn bị lại, sau đó Quốc Hội tiến hành thảo luận lại và thông qua dự án luật.
Với tầm quan trọng của kỳ họp là một hình hoạt động chủ nhất thể hiện quyền lực của mình, Quốc Hội mỗi đã nhiệm kỳ hoạt động đều thông qua quy chế điều chỉnh hoạt động của Quốc Hội diễn ra trong một kỳ họp gọi là Nội quy kỳ họp. Một trong những vấn đề trọng tâm của Nội quy nay là việc quy định cách thức thảo luận và thông qua một dự án luật. Thông thường mỗi một dự án luật được thảo luận và thông qua hai lần ở hai kỳ họp khác nhau. Kỳ họp trước Quốc Hội thảo luận và thông qua những nguyên tắc chủ đạo cho dự thảo. Các cơ quan dự thảo căn cứ vào ý kiến của Quốc Hội tại kỳ họp trước mà chuẩn bị kỹ hơn dự thảo. Dự thảo được chuẩn bị lại sẽ được Quốc Hội thảo luận chi tiết và thông qua tại kỳ họp sau.
Thạc sỹ Phạm Ngọc Minh - Khoa Luật Trường Đại
học Hòa Bình, tổng hợp
Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường
Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải
quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà
trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường,
Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH
Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh
viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng
đài tư vấn 19006198.
Bình luận