Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng... quyền sử dụng đất theo quy định. Bà bạn là người sử dụng đất hợp pháp bà hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản này mà không cần có sự đồng ý của người khác.
Hỏi: Bà nội tôi có 1 căn nhà ở quận 1, TP Hồ Chí Minh. Năm 2000 ông nội tôi bệnh, bà tôi có bán căn nhà đi để lo cho ông nội, sau đó ông tôi mất, bà tôi đã chia đều căn nhà thành 4 phần trong đó 1 phần cho bà và 3 phần cho 3 người con. Phần của bà nội tôi, bà mua căn nhà ở quận Thủ Đức (bà nội tôi đứng tên), bà tôi sống với cô Út. Trong thời gian sinh sống thấy 2 con thứ 2 và 3 không có nhà cửa, nội tôi đã cho 2 con về chung sống trong căn nhà này. Năm 2012 bà tôi làm di chúc để lại căn nhà này cho tôi và cô Út sau khi bà mất. Nay bà tôi muốn bán căn nhà này đi. Như vậy cho tôi hỏi, khi bán nhà có cần tất cả con của bà kí tên đồng ý bán hay không, hay là chỉ cần bà tôi, tôi và út tôi? (Nguyễn Văn Giang - TP. Hồ Chí Minh)
Luật gia Trần Thu Trang - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Do vậy,trong trường hợp này,tôi hiểu là bà bạn đang muốn bán căn nhà tại quận Thủ Đức, do bà đứng tên, và được mua sau khi ông mất, đây là tài sản riêng của bà.
Theo quy định của điều 667 Bộ Luật Dân sự 2005 quy định:
"1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào".
Theo quy định của điều 667 khoản 1 và khoản 3 Bộ Luật Dân sự 2005 quy định:
"1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
.....
3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực".
Như vậy, theo quy định này thì di chúc có hiệu lực tại thời điểm mở thừa kế. Và thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà người để lại di chúc mất.
Hiện tại bà bạn vẫn còn sống và bà hoàn toàn có quyền tuyên bố sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc và không phụ thuộc vào ý chí của người có tên trong di chúc.
Theo quy định tại khoản 1 điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định:
"1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này".
Như vậy, do bà bạn là người sử dụng đất hợp pháp, kể cả khi bà bạn không tuyên bố hủy bỏ di chúc liên quan đến tài sản là quyền sử dụng đất thì bà vẫn hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản này mà không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ người nào. Do vậy, việc bà bạn chuyển nhượng quyền sử dụng đất không cần phải có sự đồng ý của tất cả các con của bà kể cả bạn và cô út.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận