Tư vấn về việc không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất?

Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm.

Hỏi: Năm 2009 tôi có mua 1 mảnh đất chung với ông Nam và cùng đứng tên quyền sử dụng đất. Chúng tôi chỉ viết tay giấy thỏa thuận góp tiền mua chung đất và có người thứ 3 làm chứng. Thời điểm đó tôi không biết ông Nam có vợ.Nay tôi và ông Nam muốn bán chuyển nhượng cho người khác thì xuất hiện 1 người phụ nữ nói là vợ ông Nam. Bà ấy nói chung với ông Nam cũng là chung với Bà ấy vì bà ấy là vợ và bà ấy không đồng ý bán mảnh đất trên. Do vậy văn phòng đăng ký quyền SDĐ không tiến hàng làm thủ tục chuyển nhượng được.Tôi muốn hỏi là bà ta nói như vậy có đúng không ? Tôi có quyền lợi gì ?( Thái Hà - Hà Nội).


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Căn cứ điểm a khoản 3 điều 167 Luật đất đai 2013 quy định cụ thể như sau:

"3. Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này".

Căn cứ điều 26 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

"Điều 26. Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng

1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật này.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi."

Căn cứ vào khoản 1 điều 37 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định cụ thể:

"Điều37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm".

Thứ nhất có thể khẳng định rằng việc mua bán, chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phải bằng văn bản và phải được công chứng tại văn phòng công chứng.

Thứ hai đối với vấn đề xuất hiện người thứ 3 và nói là vợ của ông Nam thì có đưa ra được chứng cứ gì chứng minh 2 người này là vợ chồng hợp pháp tức là sẽ có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Đối với trường hợp cụ thể của cần xác định thêm một số thông tin nữa là việc mua bán đất đầu tiên giữa hai người là có công chứng hay không nếu không có công chứng thì đương nhiên hợp đồng mua bán, chuyển nhượng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đầu tiên là vô hiệu.

Xem xét quan hệ hôn nhân giữa ông Nam và người đó có phải là vợ chồng hay không và nếu là vợ chồng thì việc xác lập quan mua bán đất đầu tiên giữa hai người là ông Nam và bạn người vợ này có biết hay không. Và nếu biết thì việc thỏa thuận giữa 2 người nay như thế nào.

Bạn vẫn có quyền và lợi ích hợp pháp trong quan hệ dân sự này nếu như bạn tuân thủ đúng quy định việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản và phải có công chứng.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.