-->

Tư vấn về thừa kế theo di chúc miệng

Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng

Hỏi: Gia đình nhà chồng mình có 6 người con trai chồng mình là đầu, mình là dâu trưởng trong gia đình. Khi Bố chồng mình ốm yếu ông có gọi tất cả các con đến và họp gia đình phân chia tài sản mỗi người được một mảnh đất, còn lại mảnh đất gọi là các cụ rộng nhất nằm trong làng bố chồng mình nói cho cậu em út của chồng 1/2 còn lại là cho vợ chồng mình là trưởng. Nhưng giờ ông đã chết mẹ chồng mình nói là mảnh đất đó sổ đất là của bà và bây giờ bà muốn cho thêm em chồng thứ 2 của mình vào thêm mảnh đất mà bố chồng mình đã nói là cho vợ chồng mình đó, mẹ chồng mình làm như thế được không? (Hà Anh - Tuyên Quang)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 651 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về di chúc miệng như sau:

"1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”.

Theo quy định của pháp luật thì trường hợp một người do bệnh tật bị cái chết đe dọa hoặc những nguyên nhân khác như sự kiện bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh thì có thể lập di chúc bằng miệng. Trong trường hợp của bạn bố chồng bạn trước khi chết do ốm yếu nên đã gọi tất cả các con đến, họp gia đình chia tài sản. Như vậy, trường hợp của bố chồng bạn theo quy định của pháp luật có thể lập di chúc bằng miệng.

Tuy nhiên, bản di chúc này có hợp pháp hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố được quy định tại Điều 652 như sau:

"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.”.

Như vậy, bản di chúc bằng miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu bố chồng bạn thể hiện ý chí cuối cùng của ông về việc phân chia di sản trước mặt ít nhất hai người làm chứng. Theo quy định của pháp luật thì mọi người đều được làm chứng trừ những người sau đây:

+ Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

+ Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

+ Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

Và những người làm chứng này phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Sau thời hạn 5 ngày thì bản ghi chép lại này phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.

Do thông tin bạn cung cấp không nói rõ việc bố chồng bạn trước lúc chết phân chia tài sản có gọi người đến làm chứng hay không nên sẽ có hai trường hợp như sau:

Trường hợp 1: Bản di chúc miệng được lập hợp pháp

Nếu như việc lập di chúc của bố chồng bạn là hợp pháp thì di sản sau khi bố chồng bạn mất sẽ được chia theo di chúc. Vì theo quy định của pháp luật người lập di chúc có quyền chỉ định ai là người được hưởng di sản, ai bị truất quyền hưởng di sản.

Tuy nhiên, mặc dù pháp luật quy định cá nhân có quyền chỉ định người thừa kế nhưng để bảo vệ lợi ích của một số người trong diện thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất thì chủ sở hữu tài sản với tư cách là một thành viên trong gia đình không thể bỏ qua lợi ích của những người thân thuộc gần gũi với mình như vợ, chồng, cha, mẹ, con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất khả năng lao động.

Theo quy định tại Điều 669 Bộ Luật Dân Sự thì phần di sản bắt buộc phải dành lại này bằng hai phần ba phần di sản mà mỗi người thừa kế nói trên được hưởng nếu di sản được chia theo pháp luật, trừ trường hợp người thừa kế đó từ chối nhận di sản và không có quyền hường di sản theo quy định tại Điều 642 và Điều 643 BLDS 2005.

Do đó, tuy bố chồng bạn lập di chúc không chia di sản cho mẹ chồng bạn nhưng vì mẹ chồng bạn còn sống và thuộc vào trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nên mẹ chồng bạn vẫn được hưởng di sản bằng 2/3 suất của 1 người nếu chia theo pháp luật. Có nghĩa là nếu mảnh đất đó được chia đều cho 6 người con xem mỗi người được hưởng bao nhiêu, sau đó mẹ chồng bạn sẽ được hưởng 2/3 của số diện tích đất mà một người được hưởng.

Như vậy, đối với trường hợp di chúc hợp pháp mảnh đất rộng nhất mà bạn trình bày vẫn sẽ được chia cho cậu em út chồng bạn và chia cho hai vợ chồng bạn sau khi đã trừ đi phần mà mẹ chồng bạn được hưởng theo quy định của pháp luật.

Trường hợp 2: Bản di chúc miệng được lập không hợp pháp

Trong trường hợp di chúc miệng mà bố chồng bạn lập không thỏa mãn điều kiện hợp pháp theo quy định tại Điều 652 BLDS thì di sản sẽ được chia theo pháp luật.

Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hàng thừa kế theo pháp luật như sau:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Theo thông tin bạn cung cấp thì nhà chồng bạn có 6 người con trai và mẹ chồng bạn vẫn còn sống. Do đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất trong trường hợp này bao gồm 6 người con trai và mẹ chồng bạn. Tất cả 7 người này đều được hưởng phần di sản bằng nhau vì cùng một hàng thừa kế.

Như vậy, trường hợp này mảnh đất mà mẹ chồng bạn cho rằng sổ đỏ đứng tên bà thì theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình là tài sản chung của cả hai vợ chồng do được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, một nửa mảnh đất sẽ được chia đều cho 7 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, còn một nửa mảnh đất còn lại thuộc về mẹ chồng bạn. Bà có toàn quyền định đoạt theo quy định của pháp luật đối với việc thừa kế hoặc tặng cho cá nhân, tổ chức nào.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.