-->

Tư vấn pháp luật: Có phải bồi thường ngày lương không báo trước

Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này. 2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động. 3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động

Hỏi: Tôi ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với công ty cũ vào năm 2010 với mức lương ghi trên hợp đồng: Cấp bậc 8C: lương cơ bản (lương tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) 110 USD, phụ cấp 115 USD, tổng lương: 225USD. Đến ngày 6/6/2015, vì lý do cá nhân nên tôi viết đơn xin nghỉ việc và trên đơn đã ghi rõ ngày xin nghỉ việc là ngày 11/6/2015, đơn của tôi cũng đã được Ban giám đốc công ty ký duyệt cho tôi nghỉ đúng ngày ghi trên đơn. Và tôi đã tiến hành bàn giao đầy đủ theo yêu cầu của công ty. Nhưng hiện nay công ty lại giữ sổ BHXH, tiền trợ cấp ½ tháng lương thôi việc và tiền lương 16 ngày làm việc của tôi và yêu cầu tôi bồi thường số ngày không báo trước. Tôi có phải bồi thường số ngày lương không báo trước không? (Nguyễn Thị Mai - Hà Nội)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất,về mức bồi thường số ngày lương không báo trước thì theo quy định của Bộ luật lao động 2012 có quy định như sau:

Điều 36. Các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động

1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này…."

Đối với trường hợp này của chị thì chị đã nộp đơn xin nghỉ việc trước thời hạn nhưng công ty đã ký quyết định cho chị được nghỉ đúng ngày ghi trong đơn thì đây chính là sự thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động giữa chị và công ty. Vậy nên, đây là các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động đúng theo quy định của pháp luật và chị không phải bồi thường về số ngày lương phải báo trước cho công ty.

Bên cạnh đó, vì chị không phải bồi thường về số ngày lương phải báo trước cho công ty nên chị sẽ không phải xem xét về mức lương như thế nào để phải bồi thường.

Thứ hai,về việc công ty không trả sổ bảo hiểm và giữ lại tiền lương thì theo quy định của Bộ luật lao động 2012 về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

Điều 47. Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động

"1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên thanh toán.

Vậy nên, khi chị chấm dứt hợp đồng lao động thì trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động thì bên công ty phải thanh toán các khoản có liên quan đến quyền lợi của người lao động như về tiền lương, sổ bảo hiểm xã hội cho chị.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.