-->

Trường hợp chia thừa kế khi người có di sản thừa kế không để lại di chúc

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Hỏi: Bố tôi mất đã lâu khi đó bố mẹ tôi chưa có sổ đỏ trên mảnh đất mà bố mẹ tôi đã ở cho đến năm 1998 mẹ tôi xin cấp sổ đỏ mang tên mẹ tôi nay mẹ tôi muốn viết di chúc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tôi khi mẹ tôi ra uỷ ban nhân dân xã làm thủ tục viết di chúc thì cán bộ xã bảo phải được sự đồng ý của các anh chị còn lại. Đề nghị Luật sư tư vấn, cán bộ xã nói đúng không và mẹ tôi phải làm như thế nào? (Thành Nam)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật Hành chính - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin anh (chị) cung cấp, mảnh đất này là tài sản chung của bố mẹ anh (chị). Bố anh (chị) mất thì tài sản riêng của bố anh (chị) là ½ mảnh đất đó.Thời điểm bố anh (chị) mất là thời điểm mở thừa kế. Vì bố anh (chị) mất không để lại di chúc thì di sản của bố anh (chị) sẽ được chia theo pháp luật.

Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về hàng thừa kế theo pháp luật như sau:

“ a, Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

Như vậy, mẹ và các anh em anh (chị) sẽ sẽ được hưởng di sản thừa kế của bố anh (chị) để lại. ½ mảnh đất là di sản của bộ anh (chị) sẽ chia đều cho mẹ và các anh em của anh (chị).

Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Theo quy định này, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm. Sau 10 năm kể từ ngày người để lại di sản mất thì những người có quyền thừa kế không còn quyền khởi kiện đòi chia di sản thừa kế.

Trường hợp này, do anh (chị) không đề cập chính xác thời gian bố anh (chị) mất vào năm nào. Do đó, chúng tôi không xác định được đã hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế. Có hai trường hợp sau:

-Thứ nhất, trường hợp bố anh (chị) mất trước năm 1988 và khi mẹ anh (chị) xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các con không có tranh chấp gì về mảnh đất này.

Nếu bố anh (chị) mất trước năm 1988 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đã hết. Năm 1998, trường hợp các con không có tranh chấp gì về mảnh đất này thì mẹ anh (chị) xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mẹ anh (chị).

Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mảnh đất này là tài sản của mẹ anh (chị). Việc viết di chúc để lại tài sản cho ai là ý chí của mẹ anh (chị), không cần sự đồng ý của các con. Như vậy, trường hợp này, mẹ anh (chị) viết di chúc thể hiện ý chí của mình và mang đi thực hiện thủ tục công chứng.

- Thứ hai, trường hợp bố anh (chị) mất sau năm 1988.

Trường hợp bố anh (chị) mất sau năm 1988 thì vẫn còn thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế. Và di sản của bố anh để lại sẽ là tài sản chung chưa chia của các đồng thừa kế. Mẹ anh (chị) chỉ được xác lập quyền sử dụng với một phần mảnh đất này. Những người con cũng có quyền sử dụng đối với phần đất mà họ được hưởng thừa kế.

Như vậy, năm 1998 mẹ anh (chị) xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ không được cơ quan có thẩm quyền cấp. Trong trường hợp này, mẹ anh (chị) chỉ có thể viết di chúc để lại một phần mảnh đất mà mẹ anh (chị) có quyền thừa kế.

Nếu mẹ anh (chị) muốn viết di chúc để lại toàn bộ mảnh đất này thì cần phải có sự đồng ý bằng văn bản của tất cả các con( các đồng thừa kế còn lại) tặng cho quyền hưởng phần thừa kế của họ hoặc họ từ chối nhận phần di sản thừa kế của họ.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.