Có thể giải quyết tranh chấp lao động bằng Hòa giải viên lao động hoặc bỏ qua bước hòa giải và làm đơn khởi kiện tại Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 201 Bộ luật lao đông.
Hỏi: T là kĩ sư điện,làm việc tại công ty M. Trước khi kí hợp đồng lao động, 2 bên thỏa thuận thử việc trong thời gian là 4 tháng, từ ngày 1/9/2015 đến ngày 31/12/2015,mức lương là 90% lương công việc làm thử. Hết thời gian thử việc, mặc dù công ty M không ký hợp đồng lao động chính thức nhưng T vẫn đi làm và vẫn được giao công việc bình thường.Do những khó khăn trong hoạt động kinh doanh, tháng 5/2016 công tyM tổ chức cơ cấu lại lao động và tiến hành sắp xếp lại nhân sự. Khi rà soát các hợp đồng lao động, công ty M phát hiện T không có hợp đồng lao động nên ngày 5/6/2016 công ty M triệu tập T đến và thông báo T nghỉ việc từ ngày10/6/2016 với lí do giữa công ty và T không có quan hệ lao động. Cho em hỏi: Việc chấm dứt của công ty M với T là đúng hay sai? Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết đơn khởi kiện của T? (Nguyễn Hoàng - Đà Nẵng)
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
1. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Bộ luật lao động 2012 không quy định trường hợp không kí hợp đồng lao động nhưng vẫn làm thì có hậu quả pháp lý như thế nào. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thì sau khi hết thời gian thử việc, T vẫn tiếp tục làm công việc đó, và công ty vẫn tiếp tục giao việc. Điều này có thể hiểu rằng việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động (điều 29 khoản 1). Như vậy, về bản chất tồn tại mối quan hệ lao động, và người sử dụng lao động phải kí kết hợp đồng. Theo thông tin bạn cung cấp, công ty T làm không có kí kết hợp đồng lao động với T đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Điều 38 BLLĐ 2012 quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
"1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng"
Như vậy, trong trường hợp này, đơn phương với lý do không có hợp đồng lao động của công ty T làm là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
2. Thẩm quyền giải quyết
Bộ luật Lao động năm 2012 quy định:
"Điều 200. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân:1. Hoà giải viên lao động.2. Toà án nhân dân".
"Điều 201. Trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động:1. Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:a) Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;b) Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;c) Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.đ) Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng".
Như vậy, trong trường hợp này, có thể giải quyết tranh chấp Hòa giải viên lao động hoặc bỏ qua bước hòa giải và làm đơn khởi kiện tại Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 201 Bộ luật lao động.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận