-->

Thừa kế quyền sử dụng đất do mẹ để lại

Trường hợp người chết không để lại di chúc, di sản thừa kế được chia theo pháp luật, hàng thừa kế được xác định theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005

Hỏi: Mẹ của tôi đã mất vào năm 2010. Mẹ là người mẹ đơn thân và có 02 người con là người chị Nguyễn Thị C và người em Nguyễn Thị D (tôi). Mẹ tôi mất và không để lại di ngôn hay di chúc. Tài sản mẹ để lại là căn nhà cấp 4 trên mảnh đất diện tích 5m x 20m (tôi xin gọi là mảnh B). Hiện căn nhà này do Nguyễn N là con của chị Nguyễn Thị C cư trú. Giấy chứng nhận QSD đất do mẹ tôi đứng tên. Vào khoảng năm 1998 mẹ tôi có nói sau này sẽ chia mảnh đất làm 02 phần, phần bên nhỏ (mảnh A) cho tôi và phần bên lớn (mảnh B) cho cháu N (do cháu ở với tôi và mẹ từ nhỏ, chị C ở riêng nên không có tên trong hộ khẩu gia đình). Tuy nhiên không làm giấy cho tặng và mẹ chỉ nói như thế. Sau đó mẹ đã bán cho chị C mảnh A mà mẹ dự định cho tôi. Tôi có giúp mẹ thay mặt bà đứng ra nhận số tiền bán đất này, sau đó giữ hộ theo ý của mẹ để nuôi bà khi bà về già. Tôi xin hỏi với câu chuyện như thế thì mảnh B hiện nay mà mẹ để lại thì tôi có được chia quyền sở hữu hay không, sổ hộ khẩu gia đình hiện nay do tôi đứng tên chủ hộ, mặc dù tôi đã chuyển đến thường trú ở gia đình chồng. Giấy chứng nhận QSD đất sau khi mẹ mất thì tôi không biết ai là người đứng tên. Nếu cháu N (cháu ngoại) là người đứng tên trên giấy QSD đất thì như vậy có hợp pháp không, khi không có sự đồng ý của tôi (con gái). Tôi có đề nghị cháu cho tôi xem nhưng không được sự đồng ý từ cháu. Hiện nay tôi đang tranh chấp với cháu N về quyền lợi sở hữu hợp pháp đối với mảnh đất B. Kính mong Luật sư tư vấn giúp tôi, tôi xin trân trong và cám ơn. (Trần Huân - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Mẹ của chị đã mất vào năm 2010 và khi mẹ chị mất không để lại di ngôn hay di chúc nên tài sản mà mẹ chị để lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 675 Bộ luật dân sự 2005:

“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;

d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản”.

Vào khoảng năm 1998 mẹ chị có nói sau này sẽ chia mảnh đất làm 02 phần, phần bên nhỏ (mảnh A) cho tôi và phần bên lớn (mảnh B) cho cháu N (do cháu ở với tôi và mẹ từ nhỏ, chị C ở riêng nên không có tên trong hộ khẩu gia đình). Tuy nhiên không làm giấy cho tặng và mẹ chị chỉ nói như thế. Sau đó mẹ chị đã bán cho chị C mảnh A mà mẹ dự định cho chị. Như vậy một phần tài sản đã được định đoạt. Với phần di sản là mảnh đất B còn lại sẽ được chia theo pháp luật.

Tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về hàng thừa kế theo pháp luật như sau:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”.

Theo quy định trên thì chị và chị C đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 676 thì những người cùng một hàng thừa kế sẽ được chia phần di sản bằng nhau, tức là mảnh đất Bsẽ được chia đều cho cả 2 người. Còn nếu trong trường hợp chịvà chịC từ chối nhận di sản thì khi đó cháu N và những người khác thuộc hàng thừa kế thứ hai theo quy định trênđượchưởng thừa kế. Như vậy, nếu mọi người không có thỏa thuận nào khác thì nếu cháu N đứng tên trên giấy chứng nhận QSD đất là trái với quy định của pháp luật. Để bảo vệ quyền lợi của mình bạn có thể khởi kiện dân sự về tranh chấp thừa kế tài sản tại Tòa án huyện nơi bạn đang sinh sống.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.