-->

Ốm nghén không đi làm được có bị cho thôi việc

Quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai:Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh...

Hỏi:Trước đây tôi có đi làm tại một công ty, sau đó vì bị ốm nghén không đủ sức làm tiếp, bị ngất tại công ty trong giờ làm việc rồi được cho về nghỉ và viết giấy nghỉ. Sau đó một thời gian công ty thông báo nếu tôi không đến làm sẽ không được nhận vào làm nữa.Tôi có hợp đồng 12 tháng với mức lương 104USD(sau đợt tăng lương là 114USD) mà khi đó tôi mới làm việc 8 tháng. Vậy tôi có thể xin rút sổ bảo hiểm xã hội được không? Tôi có phải bồi thường hợp đồng không và mức chi phí là bao nhiêu? (Vũ Hồng - Hải Phòng)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật lao động quy định về trường hợp của bạn như sau: "Điều 156. Quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai:Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Thời hạn mà lao động nữ phải báo trước cho người sử dụng lao động tuỳ thuộc vào thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định".

Như vậy, nếu bạn có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chứng nhận tiếp tục làm việc có ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì bạn có quyền tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Trong trường hợp bạn vẫn muốn tiếp tục làm việc tại công ty thì bạn nên đi xin xác nhận của bệnh viện xác nhận việc bạn làm ảnh hưởng xấu đến thai nhi.

Nếu bạn không muốn tiếp tục làm thì bạn có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điều 37 Bộ luật lao động 2012 cụ thể là: điểm e, khoản 1, điều 37 "e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;" và bạn cần báo trước một thời hạn nhất định - thời hạn nàydo cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.Trường hợp này bạn sẽ không phải bồi thường khoản chi phí nào cả bởi bạn chấm dứt hợp đồng đúng luật. Trách nhiệm của công ty sẽ là:

"Điều 47. Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động:1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên thanh toán".

Nếu công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bạn vì lý do bạn mang thai thì công ty vi phạm quy định tại khoản 3, điều 155 Bộ luật lao động 2012, cụ thể là "3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động".Nếu đơn phương chấm dứt với bạn vì lý do bạn mang thai như vậy là trái quy định, theo đó nghĩa vụ của công ty theo điều 42 Bộ luật lao động:

"Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước".

Đương nhiên, trongtrường hợp này, vì việc chấm dứt hợp đồng lao động của công ty như trên là không đúng nênbạnkhông phải bồi thường, mà ngược lại, công ty phải có các nghĩa vụ với bạn theo như quy định tại Điều 42 của Bộ luật lao động như trên.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.