Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nếu công ty không trả lương 03 tháng

Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong trường hợp không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động.

Hỏi: Em có ký hợp đồng lao động xác định thời hạn là 12 tháng với công ty H. Nhưng công ty nợ lương 3 tháng không trả và em có xin nghỉ việc và được Giám đốc công ty đồng ý cho em nghỉ mặc dù hợp đồng lao động chưa kết thúc. Tuy nhiên, công ty vẫn không trả em số tiền lương trong 03 tháng làm việc là 12 triệu đồng, em có đến công ty để đòi thì công ty đã trả dần số tiền là 9 triệu đồng, nhưng đến ngày 23/12 thì tuyên bố là không trả số tiền còn lại nữa vì em đã phá vỡ hợp đồng. Em có xem lại hợp đồng thì không có điều khoản là phải bồi thường nếu phá vỡ hợp đồng, và thời điểm em nghỉ cũng đã được công ty chấp thuận. Đề nghị Luật sư tư vấn, em có vi phạm pháp luật khi phá vỡ hợp đồng như thế không? (Phương Mai – Ninh Bình)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Thuỳ - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Liên quan đến vấn đề anh (chị) hỏi, chúng tôi xin trích dẫn một số quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 như sau:

-Về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động: “1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục. 2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này. 3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này” (Điều 37).

- Về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: “1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước. 3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này” (Điều 43).

Theo như thông tin anh (chị) cung cấp, trường hợp của anh (chị) là đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nếu thuộc các trường hợp theo quy định của pháp luật mà không phải chịu hậu quả pháp lý và chế tài. Trường hợp của anh (chị) ký hợp đồng lao động xác định thời hạn là 12 tháng, với lý do công ty không trả lương 03 tháng làm việc cho anh (chị), anh (chị) có thể thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp pháp. Tuy nhiên, anh (chị) phải thông báo trước cho công ty 03 ngày làm việc thì anh (chị) mới được xác định là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Nhưng nếu anh (chị) không thực hiện báo trước cho công ty ít nhất 03 ngày làm việc chấm dứt hợp đồng thì hành vi của anh (chị) là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Và như vậy, số tiền 03 triệu đồng có thể là mức bồi thường mà anh (chị) phải trả cho hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, và hậu quả mà chị phải gánh chịu là nghĩa vụ chị phải thực hiện theo Điều 43 Bộ luật Lao động.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.