Người lao động có quyền khiếu nại trực tiếp đến Ban giám đốc để được giải quyết hoặc khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đặt trụ sở để yêu cầu giả quyết tranh chấp lao động cá nhân.
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Lao động năm 2012, về hình thức của hợp đồng lao động quy định như sau: “1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói”.
Như vậy hợp đồng công ty thỏa thuận kí với anh (chị) mức lương là 10 triệu. Khi trả lương cho anh (chị) công ty chỉ căn cứ vào hợp đồng để chi trả đủ số lương cho anh (chị) theo đúng nội dung đã thỏa thuận. Theo đó công ty có trách nhiệm trả đúng lương cho anh (chị) theo HĐLĐ đã giao kết. Nếu công ty không thực hiện đúng trách nhiệm này thì anh (chị) có quyền khiếu nại trực tiếp đến Ban giám đốc để được giải quyết hoặc khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đặt trụ sở để yêu cầu đòi tiền công, tiền lương lao động. Về những khoản tiền tăng mức lương ngoài nội dung của hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa anh (chị) với giám đốc công ty.
Thứ hai, về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định như sau: "1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây: a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn; Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. ....".
Căn cứ theo quy định trên, thì HĐLĐ giữa anh (chị) và công ty không thuộc loại HĐLĐ xác định thời hạn. Tuy hai bên có sự thỏa thuận về thời hạn của hợp đồng, nhưng pháp luật về lao động hiện hành không có loại HĐLĐ nào có thời hạn 5 năm. Mà đối với HĐLĐ xác định thời hạn dài nhất chỉ là 3 năm. Bởi vậy, HĐLĐ của anh (chị) được coi là hợp đồng không xác định thời hạn. Theo đó, đối với HĐLĐ không xác định thời hạn quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động được khoản 3 Điều 37 Bộ luật lao động 2012 quy định như sau: "...3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”. Như vậy, anh (chị) có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ nhưng phải báo trước cho công ty ít nhất 45 ngày trước khi nghỉ việc. Hết 45 ngày này, anh (chị) có quyền nghỉ việc. Và theo đó, trong thời hạn 7 ngày hoặc có thể gia hạn đến 30 ngày công ty phải thực hiện trách nhiệm trả đủ toàn bộ tiền lương còn thiếu của anh (chị), các giấy tờ khác và sổ bảo hiểm đã chốt cho anh (chị).
- Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
- Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận