Việc chồng chị chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của bạn nên vô hiệu còn chưa kể tới việc chuyển nhượng bằng giấy tờ viết tay có thể vi phạm hình thức của hợp đồng (phải được công chứng) nên bạn hoàn toàn có quyền đòi lại mảnh đất đó.
Hỏi: Tôi trúng đấu giá lô đất phố trợ (60 triệu) năm 2002, và đã hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định nhưng trước đây chồng tôi là Nguyễn Văn Châu có bán lại cho ông Minh với giá 23 triệu (bằng giấy viết tay giữa hai người), hiện nay giá trị lô đất của tôi với giá thị trường 1,5 tỉ. Xin hỏi Luật sư, tôi có thể đòi lại được mảnh đất đó không? (Nguyễn Hải Hà –Thanh Hóa)
Luật gia Trần Thu Trang - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Căn cứ vào Điều 689 Luật Dân sựquy định về hình thức chuyển quyền sừ dụng đất:
"Điều689.Hình thức chuyển quyền sử dụng đất
1. Việc chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện thông qua hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.
3. Việc thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 733 đến Điều 735 của Bộ luật này."
và Điều 122 Luật Dân sự quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Điều122.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
"1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định."
Phân tích trường hợp của chị như sau:
- Thứ nhất nếu mảnh đất chị trúng đấu giá trên chị trúng trong thời kỳ hôn nhân giữa chị và chồng chị thì nó là tài sản chung của anh chị, do đó việc thực hiện các giao dịch liên quan đến mảnh đất cần phải có sự đồng thuận của cả chị và anh ấy. Tuy nhiên, trong trường hợp của chị anh ấy tự mình bán mảnh đấy đó cho người khác mà không có sự chấp thuận của chị, đây là hành vi không đúng với quy định của pháp luật. Hơn nữa hình thức hợp đồng mua bán đất giữa chồng chị và người thứ ba kia chỉ là bản hợp đồng viết tay không có công chứng như theo quy định tại Điều 689 trên và như vậy thì theo quy định của Điều 122 thì Hợp đồng mua bán đất giữa chồng chị và người thứ ba kia bị vô hiệu do vi phạm hình thức do pháp luật chỉ công nhận các giao dịch mua bán bằng giấy tay thực hiện trước ngày 1/7/2004 (ngàyLuật đất đai 2003có hiệu lực).
Và để đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình chị có thể yêu cầu lên Tòa án nhân dân cấp huyện tại nơi có mảnh đất tuyên bố hợp đồng mua bán đất trên là vô hiệu với những lý do tôi đưa ra ở trên.
- Tương tự, nếu mảnh đất chị trúng đấu giá chị trúng vào thời điểm trước khi anh và chị kết hôn, nếu hai người không có thỏa thuận sát nhập nó vào khối tài sản chung vợ chồng thì mảnh đất này thuộc sở hữu riêng của chị, như vậy việc anh chồng chị bán mảnh đất của chị cho người thứ ba mà không có sự ủy quyền của chị là hành vi trái pháp luật. Kết hợp với sự vi phạm hình thức của hợp đồng như trên tôi đã nói thì chị có thể khởi kiện lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có mảnh đất để đòi lại mảnh đất theo đúng quyền và lợi ích hợp pháp mà pháp luật quy định.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận