-->

Luật sư tư vấn việc NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật

NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật

Hỏi:Tôi đã làm việc tại công ty gần 6 năm và ký hợp đồng vô thời hạn từ năm 2011. Ngày 27.01.2016, tôi bị trưởng phòng mới được bổ nhiệm gần đây, thông báo cho nghỉ việc, yêu cầu viết đơn nghỉ việc do đánh giá công việc của tôi thấp (theo ý kiến chủ quan của trưởng phòng, tôi không gây ra bất cứ hậu quả gì cho công ty trong thời gian làm việc tại đây). Sau đó, khoá máy tính, tài khoản của tôi ngay trong ngày, đồng thời thông báo cho các trưởng phòng khác về việc buộc tôi thôi việc ngay trong ngày. Tôi đã thông báo tới công ty là sẽ không tới làm việc vì bị ép nghỉ việc băng văn bản, tôi hiện tại đang có thai được gần 2 tháng. Sau đó, Phòng nhân sự công ty có gửi giấy nói tôi lên làm việc và ghi là: công ty không yêu cầu tôi nghỉ việc. Việc Trưởng phòng ép tôi nghỉ việc ngay lập tức và khoá mọi công cụ làm việc, thông báo rộng rãi toàn hệ thống như vậy thì có phải là đã thay mặt công ty thực hiện ép nghỉ việc không? Tôi có thể yêu cầu công ty bồi thường cho việc này không? Tôi vẫn chưa ký hay nộp đơn xin nghỉ việc. (Nguyễn Thịnh - Hà Giang)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198


Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Về vấn đề trưởng phòng có thay mặt công ty thực hiện việc ép nghỉ việc hay không chúng tôi xin phép không trả lời vì còn tùy thuộc vào điều lệ công ty và các quyền khác khi trưởng phòng được ủy quyền mà không liên quan đến các quy định của pháp luật.

Về việc yêu cầu bồi thường: Nếu việc trưởng phòng ép bạn nghỉ việc là thay mặt công ty và việc làm này trái pháp luật thì bạn có quyền quyền yêu cầu đòi bồi thường và theo quy định của pháp luật tại điều 42 Bộ luật lao động quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:“Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”.
Trường hợp này quyền của bạn chính là nghĩa vụ của bên kia. Theo thông tin bạn đưa ra thì bạn chưa viết đơn xin nghỉ việc do đó tùy theo từng trường hợp mà bạn sẽ được bồi thường theo quy định của pháp luật nêu trên.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.