-->

Luật sư tư vấn về lương trên hợp đồng và lương thực nhận

Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước...

Hỏi: Tôi làm việc cho công ty từ tháng 4 năm 2013 nhưng đến tháng 5 năm 2014 công ty mới ký hợp đồng lao động (HĐLĐ) thời hạn 1 năm. Nhưng mức lương trong HĐLĐ ghi chỉ có 2.400.000đ trong khi thực lãnh mỗi tháng của tôi là: 9.500.000đ và từ tháng 6/2014 lương của tôi là 12.500.000đ. Xin hỏi như vậy có đúng luật không? (Thùy Trang - Hải Phòng)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, về việc mức lương trong HĐLĐ ghi chỉ có 2.400.000đ, trong khi thực tế mỗi tháng của bạn là 9.500.000đ và từ tháng 6/2014 là 12.500.000đ. Doanh nghiệp phải trả lương bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu áp dụng cho từng khu vực doanh nghiệp.

Nghị định 182/2013/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, theo đó mức lương tối thiểu áp dụng cho từng khu vực doanh nghiệp cụ thể như sau: Vùng I là 2.700.000 đồng/tháng, Vùng II là 2.400.000 đồng/tháng, Vùng III là 2.100.000 đồng/tháng, Vùng IV là 1.900.000 đồng/tháng.

Qua đây có thể thấy Công ty của bạn đã trả lương trong HĐLĐ cho bạn bằng với mức lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp vùng II, vì vậy công ty không vi phạm pháp luật.

Nhưng việc ghi mức lương thấp hơn trên HĐLĐ so với thực nhận trên thực tế sẽ có ảnh hưởng khi tính các chế độ cho bạn sau này (ốm đau, trợ cấp thôi việc…)

* Thứ hai, về thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:

Khoản 2 Điều 37 Bộ luật lao động 2012 quy định về thời hạn báo trước trong đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

“2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.”

Như vậy, với mỗi trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 37 sẽ có một thời hạn báo trước khác nhau quy định tại Khoản 2 Điều 37 Bộ luật lao động 2012.

Trường hợp của bạn, bạn không nói rõ lý do xin nghỉ việc của bạn là gì, nên không thể xác định được bạn thuộc trường hợp nào. Căn cứ vào lý do xin nghỉ việc của mình và khoản 2 Điều 37 Bộ luật lao động bạn sẽ xác định được thời hạn báo trước.

* Thứ ba, về việc tính trợ cấp thôi việc:

Điều 48 Bộ luật lao động 2012 quy định về trợ cấp thôi việc như sau:

“1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.”

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.