-->

Lấy tiền của công ty thay cho tiền lương có phạm tội?

Theo như thông tin anh (chị) cung cấp ông chủ đã hứa là lấy được tiền thì sẽ trả lương cho anh (chị) nên anh (chị) đã giữ lại số tiền luôn và đã báo cho ông chủ là nhận được tiền rồi nên hành vi này không cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hỏi:Tôi làm việc cho doanh nghiệp tư nhân hơn một năm trời chưa có lương, cũng không có kí hợp đồng làm việc, lúc xin việc thì ông chủ chỉ hứa là làm một năm trả 100 triệu, hết năm hết vụ thanh toán. Đến kỳ trả lương, tôi có yêu cầu ông chủ thanh toán thì ông ta nó đợi công ty A trả tiền sẽ trả cho tôi. Khi công ty A trả tiền, tôi là người nhận nên đã lấy luôn số tiền đó gửi về quê cho gia đình và có báo lại cho ông chủ việc này, sau đó ông chủ nói nếu tôi không trả lại số tiền đó sẽ kiện tôi về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đề nghị Luật sư tư vấn, ông chủ tôi có quyền làm như vậy không? (Nguyễn Giang San - Khánh Hòa)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Minh Anh - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật lao động năm 2012 quy định như sau:

Điều 96. Nguyên tắc trả lương

"Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn".

Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương".

Như vậy ông chủ của anh (chị) có nghĩa vụ phải trả lương đủ và đúng thời hạn theo thỏa thuận ban đầu và không được chậm quá 01 tháng nếu không phải trong trường hợp đặc biệt không thể trả lương. Theo thông tin anh (chị) cung cấp thời điểm ông chủ không chịu trả lương cho anh (chị) là trước 1 tháng đến hạn thanh toán tiền lương nên đây ông chủ của anh (chị) được xác định là chưa vi phạm nguyên tắc trả lương, anh (chị) cần phải đợi đến thời hạn thanh toán mới có thể biết được ông chủ có vi phạm nghĩa vụ hay không. Khi đến thời hạn thanh toán lương mà ông chủ vẫn tiếp tục không chịu trả nốt tiền lương cho anh (chị) mặc dù đã nói chuyện và thương lượng rồi thì anh (chị) có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cụ thể căn cứ theo Điều 200 và 201 Luật Lao Động.

Điều 200. Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

"1. Hoà giải viên lao động.

2. Toà án nhân dân."

Về vấn đề anh (chị) có phạm phải tội lừa đảo hay không.

Căn cứ theo Điều 139 Luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm."

Theo thông tin anh (chị) cung cấp ông chủ đã hứa là lấy được tiền thì sẽ trả lương cho anh (chị) nên anh (chị) đã giữ lại số tiền luôn và đã báo cho ông chủ là nhận được tiền rồi nên hành vi này không phải là hành vi lừa dối hay dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt số tiền này, việc anh (chị) giữ lại số tiền hoàn toàn do trước đó đã có ý định của ông chủ đồng thời người này cũng đang có nghĩa vụ phải trả lương cho anh (chị) do đó hành vi của anh (chị) không cấu thành hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên trước khi gửi số tiền về quê anh (chị) cần phải thông báo trước cho ông chủ vì bản chất đây vẫn là tài sản thuộc quyền sở hữu của người này và nếu ông chủ không đồng ý vẫn cố tình làm khó cho anh (chị) như vậy anh (chị) có thể dựa trên những căn cứ pháp luật lao động trên để giải thích cho ông chủ thấy mình hoàn toàn có thể bảo vệ được quyền lợi thông qua pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.