-->

Muốn khởi kiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm như thế nào?

Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Hỏi: Vào khoảng đầu tháng 6, chị gái em có quen 1 người bạn và người này nhận là vợ của phó chi cục kiểm lâm tỉnh Đaklak. Sau 1 thời gian nói chuyện với nhau, người này có mở lời là muốn lo cho chồng chị gái em có công việc ổn định nên sẽ lo cho anh ấy suất vào lái xe tại cục kiểm lâm Đaklak. Phí chạy việc sẽ là 35 triệu + phí chạy vào biên chế là 12 triệu + phí làm bằng và hồ sơ là 8 triệu. Sau khi lấy được tiền mới mục đích là lo việc thì người này có mở lời là muốn chị gái em góp vốn làm ăn (đầu tư mua gỗ bán lại lấy lời) thì có đưa thêm cho chị người đó 25 triệu. Và bán lại cho người đó xe AB của 2 vợ chồng với giá 17 triệu (chiếc xe này mua bán không giấy tờ và chị gái em cũng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ). Sau khi lấy được khoản tiền để chạy việc và mua gỗ kiếm lời thì người này muốn ngỏ ý muốn chạy việc thêm cho em gái em suất vào dạy học ở 1 trường tại thành phố BMT. Suất chạy vào đó là 140 triệu. Nhà em đã đưa cho người này 67 triệu. (những số tiền này đều có ghi giấy tờ và ghi âm lại đầy đủ). Vì nhiều lần thất hứa và khất hẹn từ lần này đến lần khác nên chị gái em và gia đình mới sinh ra nghi ngờ và đi điều tra ngầm, thì mới biết là người này lừa đảo, mượn danh người có chức có quyền để lừa tiền và chiếm đoạt tài sản. Tất cả những tin nhắn hay cuộc gọi nhắn tới máy đều chỉ là của 1 người. Gia đình em muốn khởi kiện để lấy lại tài sản, mong luật sư tư vấn giúp vì người này mới sinh con được 3 tuần. Nếu muốn khởi kiện thì thủ tục sẽ như thế nào ạ? Nếu đứa con của bà này còn nhỏ như vậy thì bà có phải chịu trách nhiệm hình sự không ạ? Vì tổng giá trị tài sản bà chiếm đoạt lên tới 167 triệu đồng. (Thanh Phong - Đăk Lak)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Dựa vào những chi tiết bạn đề cập trong câu hỏi, tôi có thể xác định hành vi của người kia đã rơi vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Do đó, bạn có thể gửi đơn tố cáo tội phạm tới Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng những bằng chứng có liên quan. Trách nhiệm còn lại của bạn là đợi các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng hình sự và trả lại tài sản cho bạn trong quá trình thi hành án.

Theo Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:A) Có tổ chức;B) Có tính chất chuyên nghiệp;C) Tái phạm nguy hiểm;D) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;Đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;E) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;G) Gây hậu quả nghiêm trọng.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;B) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân :A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

​Hành vi của người kia rơi vào khoản 2 Điều này, khung hình phạt là phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

II. Con nhỏ của bà chưa đến 3 tuổi thì có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 như sau:

"1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.2. Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.3. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá."

Tóm lại, trường hợp của người kia không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định. Do vậy, bà vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo tại Điều 139 Bộ luật hình sựnhư trên. Tuy nhiên, do con bà chưa đủ 36 tháng tuổi cho nên bà có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù theo điểm b khoản 1 Điều 61 như sau:

"1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

...b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;"

Việc bà được hoãn chấp hành hình phạt không phải là chắc chắn mà tùy thuộc vào sự quyết định của Tòa có thấy cần thiết cho phép bà được hoãn chấp hành hình phạt để nuôi con hay không. Kể cả được Tòa cho phép hoãn chấp hành hình phạt thì sau khi con bà được 36 tháng tuổi bà vẫn phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên. Còn tài sản bị lừa đảo sẽ được trả lại cho gia đình bạn trong quá trình thi hànhánngay khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.