-->

Làm việc từ năm 2005 có được trả trợ cấp thôi việc?

Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên...

Hỏi:Tôi đang làm việc tại công ty Hưng Thịnh được 10 năm, loại hợp đồng không xác định thời hạn (từ năm 2005 đến năm 2015 và công ty tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho tôi từ tháng 1 năm 2009). Vào tháng 9/2015 tôi lên trình bày trưởng phòng nhân sự xin nghỉ việc và đề nghị công ty chi trả trợ cấp thôi việc trong thời gian làm việc tại công ty.Trưởng phòng nhân sự thông báo tôi chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của pháp luật. Luật sư cho tôi biết, trưởng phòng nhân sự phát biểu chỉ trả trợ cấp thất nghiệp là đúng hay sai? Vì sao? Công tycó trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc, mất việc, bảo hiểmthất nghiệp hoặc công tytrả cho tổng thời gian tôi làm việc? Cụ thể quy định hiện hành giải quyết trong trường hợp trên. (Phan Hải - Cao Bằng)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 48 Bộ luật lao động 2012 quy định như sau:

"Điều 48. Trợ cấp thôi việc

1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc".

Như vậy, tính từ 1/1/2009 bạn bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp cho nên thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc tính tư 1/1/2009 trở về trước. Do đó, từ năm 2005 đến hết năm 2008 bạn sẽ được tính để trả trợ cấp thôi việc. Trưởng phòng bạn trả lời như vậy là sai quy định của pháp luật. Nếu công ty không chi trả trợ cấp thôi việc cho bạn thì bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu công đoàn công ty hoặc gửi đơn đến Phòng lao đông thương binh xã hội hoặc Tòa án nhân dân cấp quận/huyện nơi công ty đặt trụ sở chính để yêu cầu giải quyết.

Công ty có nghĩa vụ thanh toán tiền trợ cấp thôi việc, mất việc chứ không có nghĩa vụ chi trả trợ cấp thất nghiệp cho bạn. Trợ cấp thất nghiệp do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả theo khoản 2, điều 28 Nghị định 28/2015/NĐ-CP quy định:

"2. Chi trả trợ cấp thất nghiệp

a) Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp tháng đầu tiên của người lao động trong thời hạn 05 ngày làm việckể từngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp;

b) Tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp cho người lao động từ tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp thứ 2 trở đi trong thời hạn 05 ngày làm việc, tính từ thời điểm ngày thứ 07 của tháng hưởng trợ cấp thất nghiệp đó nếu không nhận được quyết định tạm dừng hoặc chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với người lao động. Trường hợp thời điểm ngày thứ 07 nêu trên là ngày nghỉ thì thời hạn chi trả trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày làm việc tiếp theo".

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.