-->

Quy định của pháp luật về nghĩa vụ chi trả trợ cấp thôi việc

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn về nghĩa vụ chi trả trợ cấp thôi việc.

Hỏi: Tôi đã làm việc tại Công ty A được 10 năm loại hợp đồng không xác định thời hạn (từ năm 2006 đến năm 2016 và Công ty tham gia BHTN cho tôi từ tháng 01 năm 2010), vào tháng 9 năm 2016 tôi lên trình bày trưởng phòng nhân sự xin nghỉ việc và đề nghị Công ty chi trả trợ cấp thôi việc trong thời gian làm việc tại Công ty, được Trưởng phòng nhân sự thông báo tôi chỉ được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của pháp luật? Vậy Trưởng phòng nhân sự phát biểu chỉ trả trợ cấp thất nghiệp là đúng hay sai? (Bùi Phương - Nam Định)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Với trường hợp của chị mà phía đơn vị không chi trả trợ cấp thôi việc là trái quy định của pháp luật lao động. Theo quy định của pháp luật, trường hợp chị tham gia lao động liên tục từ năm 2006 tới tháng 09/2016 thì khi chấm dứt hợp đồng lao động (trừ trường hợp chấm dứt do bị sa thải, đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí) thì đơn vị phải chi trả trợ cấp thôi việc trong khoảng thời gian từ năm 2006 tới 31/12/2009 (Bởi từ 01/01/2010 đơn vị đã tham gia BHTN cho chị).
Chị có quyền yêu cầu đơn vị giải trình về hành vi của mình, trường hợp không trả lời hoặc trả lời không đúng thì chị có quyền gửi đơn tới cơ quan có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết (phòng LĐ -TB & XH hoặc TA).

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.