Không có hợp đồng lao động, cho tranh chấp thì giải thích thế nào?

Trong trường hợp tranh chấp lao động, nếu hai bên có thể dàn xếp và thương lượng được về khoản bồi thường này thì việc thương lượng đó vẫn được cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tôn trọng.

Hỏi: Tôi đã làm việc được 08 tháng cho một công ty dịch vụ khách sạn. Công ty không ký hợp đồng lao động với tôi (khoảng 20 nhân viên đang tại 03 chi nhánh của công ty đều như vậy). Khi công ty bố trí công việc không phù hợp, thời gian cũng không ổn định nên tôi không đồng ý.

Sau đó, công ty đã cho tôi nghỉ việc và thanh toán chỉ 10 ngày của tháng thứ 08 là 10 x 200.000 = 2.000.000 đồng. Tôi muốn hỏi, Công ty làm như vậy có đúng với quy định của pháp luật không? Nếu tôi yêu cầu công ty bồi thường vì lý do công ty không ký hợp đồng lao động và chấm dứt lao động một phía, tôi phải khiếu nại ở đâu và như thế nào? và công ty phải bồi thường cho tôi như thế nào theo đúng qui định của bộ luật lao động? (Đức Cường - Phú Thọ)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 18 Bộ luật Lao động năm 2012, khi anh (chị) làm việc cho công ty, công ty phải có nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động với anh (chị): “Nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động: Trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động. Trong trường hợp người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì việc giao kết hợp đồng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người lao động”.
Mặt khác, trừ trường hợp là công việc tạm thời có thời hạn dưới 3 tháng thì giao kết hợp đồng lao động phải bằng văn bản theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Lao động năm 2012: " Hình thức hợp đồng lao động: 1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Đối với công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói”.
Như vậy, công ty của anh (chị) phải có nghĩa vụ giao kết hợp đồng bằng văn bản với anh (chị) nhưng công ty đã không làm nên công ty đã vi phạm quy định pháp luật về lao động. Khi vi phạm về việc giao kết hợp đồng như trên, công ty của anh (chị) sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điều 5, Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Thứ hai, về yêu cầu bồi thường: Anh (chị) đưa ra yêu cầu công ty của anh (chị) bồi thường là do công ty không ký hợp đồng với anh (chị) và chấm dứt lao động một phía là chưa có cơ sở pháp lý: việc công ty không ký hợp đồng với anh (chị) là có vi phạm pháp luật lao động nhưng chỉ là cơ sở để tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với công ty.Và khi công ty của anh (chị) cho anh (chị) nghỉ việc cũng không được coi là chấm dứt lao động một phía, vì thực tế giữa anh (chị) và công ty chưa ký hợp đồng lao động nên không có căn cứ cho rằng công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với anh (chị) được. Do vậy, khi có tranh chấp lao động giữa anh (chị) và công ty anh (chị) thì theo quy định của bộ luật lao động anh (chị) sẽ không được bồi thường. Tuy nhiên, về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động theo quy định bộ luật lao động 2012 thì việc giải quyết tranh chấp luôn phải: Tôn trọng, bảo đảm để các bên tự thương lượng, quyết định trong giải quyết tranh chấp lao động và việc giải quyết tranh chấp lao động trước hết phải được hai bên trực tiếp thương lượng nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của hai bên tranh chấp, ổn định sản xuất, kinh doanh, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Vậy, khi giải quyết tranh chấp lao động giữa anh (chị) và công ty của anh (chị), anh (chị) hoàn toàn có quyền đưa ra yêu cầu công ty bồi thường cho anh (chị) một khoản tiền mà theo anh (chị) là thỏa đáng vì đã xâm phạm đến lợi ích của anh (chị). Nếu hai bên có thể dàn xếp và thương lượng được về khoản bồi thường này thì việc thương lượng đó vẫn được cơ quan, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tôn trọng.

Thứ ba, về vấn đề khiếu nại: Căn cứ theo các điều 5, điều 6, điều 15 của Nghị định 119/2014/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật Lao động, Luật dạy nghề, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng về khiếu nại, tố cáo thì khi công ty của anh (chị) có hành vi vi phạm pháp luật lao động và xâm phạm đến quyền, lợi ích của anh (chị) thì anh (chị) có quyền gửi đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp lần đầu đến chính công ty của anh (chị). Trường hợp anh (chị) không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của công ty hoặc đã hết thời hạn khiếu nại lần đầu thì anh (chị) có thể khiếu nại lần hai lên Chánh Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, nơi công ty của anh (chị) đặt trụ sở chính. Nếu anh (chị) không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc quá thời hạn khiếu nại lần hai thì anh (chị) có quyền khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại và văn bản liên quan hoặc khởi kiện vụ án tại Tòa án nơi công ty của anh (chị) đặt trụ sở chính.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.