-->

Khởi kiện hành vi giả mạo chữ ký

Luật sư tư vấn về việc Tư vấn khởi kiện...

Hỏi: Chị tôi lấy chồng sinh được hai bé: trai 4 tuổi, gái 2 tuổi. Chồng chị ấy có 2 người con trai riêng. Trong quá trình chung sống, vì làm ăn thua lỗ nên chồng chị tôi thế chấp đất đai, nhà cửa cho ngân hàng (đất đai, nhà cửa có từ trước khi chị tôi về làm vợ), và nợ người ngoài (chị tôi không kí giấy tờ nào liên quan đến việc vay tiền của chồng), tổng số nợ là 10 tỉ.Hơn năm trước, chồng chị tôi có thành lập công ty, đứng tên chị tôi làm giám đốc vàđại diện trước pháp luật của công ty nhưng con dấu của công ty chị tôi không giữ mà chồng chị tôi cầm. Trong quá trình hoạt động của công ty nhiều lần chồng chị tôi đã giả mạo chữ kí của chị tôi để rút tiền ngân hàng và các khoản khác. Mới đây chồng chịtôi đã sang tên công ty cho bà chị gái để tiện nhưng tôi vãn là người đại diện hợp pháp của công ty. Hiện công ty đang nợ thuế 100 triệu. Tôi muốn hỏi nếu chị gái tôi khởi kiện chồng chị tôi về tội giả mạo chữ kí thì sẽ như thế nào? Nếu ly hôn thì chị tôi có phải chịu trách nhiệm liên đới tới số nợ 10 tỉ trên hay không? (Hoàng Bình - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:


Hành vi giả mạo chữ ký của người khác là trái quy định của pháp luật và tùy vào hậu quả xảy ra có thể bị xử lý vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể. Nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào các yếu tố như động cơ, mục đích phạm tội. Chẳng hạn: Hành vi giả mạo chữ ký của người khác để chiếm đoạt tài sản
, tước quyền thừa kế của ngươì khác thì có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; đối với một người có chức vụ, quyền hạn mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích trục lợi thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giả mạo trong công tác,

Theo quy định tại Điều 139, bộ luật hình sự năm 1999 có quy định:

Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từsáu tháng đến ba năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:a) Có tổ chức;e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;g) Gây hậu quả nghiêm trọng.3. Phạm tội thuộc mộttrong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

Chồng của chị bạn trong quá trình hoạt động của công tyđã nhiều lần kí khống, giả mạp chữ kí của chị bạn để rút tiền ngân hàng và các khoản khác đây là hành vi giả mạo chữ kí của người khác để chiếm đoạt tài sản nên hành vi này của chồng chị bạn đã cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Khi chị bạn khởi kiện chồng về hành vi giả mạo chữ kí thì để xem chị bạn có liên quan gì vè chế độ chịu trách nhiệm nợ thuế của công ty, và cá khoản nợ khác của công ty nếu có trên hay không thì phụ thuộc vào việc công ty chồng chị bạn thành lập là doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, hay công ty trách nhiệm hữu hạn .

+ Nếu là doanh nghiệp tư nhân thì do tính chất của doanh nghiệp đó là chế độ chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty nên ngoài việc dùng hết số tài sản của công ty để thanh toán nợ thuế nếu vẫn không đủ thì chị bạn sẽ phải có trách nhiệm chi trả số nợ thuế nếu tài sản của công ty không đủ để thanh toán.

+ Nếu công ty chồng chị bạn lập là công ty trách nhiệm hữu hạn thì chế độ chịu trách nhiệm đối với số nợ của công ty là hữu hạn, các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Điều này có nghĩa chị bạn sẽ không liên quan đến khoản nợ của công ty.

+ Nếu chồng chị bạn và chị bạn là hai thành viên hợp danh thì chị bạn phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ của công ty nếu như chủ nợ của công ty yêu cầu bất kì thành viên nào thanh toán. (Điểm đ, Khoản 2, Điều 134)

Căn cứ tại Điều27 Luật hôn nhân và gia đình có quy định về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện là:

"Điều27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng:1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”.

Như vậy, nếu việc vay mượn nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình như dùng để chi tiêu sinh hoạt trong gia đình, sửa chửa nhà cửa, chăm lo cho con cái, nghĩa vụ do con gây ra,... thì dù chỉ có chồng chị bạn bạn đứng tên vay mượn số tiền 10 tỉ kia thì chị bạn cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trả nợ khily hôn.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.