Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Hỏi: Gia đình chị gái em đang làm thủ tục ly hôn, hai vợ chồng anh chị sống với nhau được 6 năm, có một con gái đã 05 tuổi và có tài sản chung là một cái tàu, một ngôi nhà. Nay anh chị muốn ly hôn vì hai vợ chồng bất hòa không sống được với nhau nữa.Người chồng làm đơn ra tòa đòi ly hôn và nói rằng tài sản là của riêng anh ta. Tài sản trên do hai anh chị gây dựng sau khi kết hôn. Ngôi nhà được xây dựng trên đất đứng tên của bố mẹ chồng của chị em. Nay gia đình bên nhà chồng của chị em nói nhà trên đất của họ thì của họ và không có ý định chia một chút tài sản nào cho chị gái của em. Vậy em xin hỏi quý luật sư là việc là của họ như vậy là đúng hay sai, có hợp với pháp luật hiện hành hay không? Và nếu theo đúng luật thì sau khi ly hôn chị em sẽ được hưởng những gì? Nếu chị em muốn nuôi con thì cần có những điều kiện gì? (Đặng Linh - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo như thông tin bạn đưa ra thì tài sản chung của vợ chồng chị gái bạn bao gồm 1 con tàu và 1 ngôi nhà chung.Tuy nhiên, người chồng cho rằng đó là tài sản riêng của mình. Vậy cáchxác định tài sản chung của vợ và chồng như thế nào?
Theo quy định tạiKhoản 1, Điều 33 Luật HN&GĐ2014:“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Do đó,để xác định xem tài sản của vợ chồng chị gái bạn có phải là tài sản chung hay không trước hết phải xác định đó có phải là tài sản do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hay không và cóthực hiện việc chia tài sản chung trong thời kỳ như Điều 38 LHN&GĐ 2014 hay không?
Ngoài ra tại Tòa án để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì căncứtheo quy định tại Khoản 3, Điều 33 LHNGĐ 2014:“3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".
Như vậy việc đưa đơn ly hôn ra tòa của người chồng và yêu cầu tranh chấp về tài sản thì nếu người chồng cho rằng tài sản đó là tài sản riêng của mình thì phải đưa ra được căn cứ chứng mình là tài sản riêng của mình, nếu không đưa ra được căn cứ chứng minhthì tài sản này mặc nhiên sẽ được coi là tài sản chung của vợ chồng và khi chia tài sản sẽ áp dụngtheo nguyên tắc quy định tại Điều 59 LHN&GĐ:
“Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này. Trongtrường hợpchế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Vậy nếu không thỏa thuận được và cũng khôngxác định được công sức đóng góp của vợ chồng thì theo nguyên tắc trêntài sản sẽ được chia đôi.
Tuy nhiên trong trường hợp của bạn, ngôi nhà hiện tại đang nằm trên đấtđứng tênbố mẹ chồng chị gái bạn,nên khi tranh chấp tại Tòa có thểchị gái bạn phải đưa ra được căn cứ, bằng chứng để chứng minh đây là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng chứ không phải là tài sản của bố mẹ chồng bạn bằng cách có thểcung cấp các hóa đơn khi xây dựng nhà, hoặc các giấy tờ khác có ý nghĩa trong việc chứng minh.
2. Về quyền nuôi con:
Vợ chồng chị gái bạn có một con gái 5 tuổi, vậy để xem ai là người được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì Tòa án sẽ căn cứ theo Khoản 2, 3, Điều 81 LHN&GĐ 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, trường hợp này con gái 5 tuổi nên nằm trong khoảng từ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi thì Tòa án trước tiên sẽ căn cứ vào thỏa thuận của các bên vợ và chồng. Nếu các bên không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con cụ thể hơn là căn cứ xem ai đủ khả năng nuôi con. Vì vậy trên thực tế Tòa án sẽ yêu cầu 2 bên chứng minh về điều kiện kinh tế, thu nhập hợp pháp… và về nhân phẩm của các bên. Dựa trên những căn cứ mà các bên tự đưa ra chứng minh về khả năng nuôi con sau khi ly hôn của các bên Tòa án sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc ai là người sẽ được quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận