Hình thức kỷ luật lao động sa thải áp dụng trong những trường hợp nào?

Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong những trường hợp sau đây: 1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh...

Hỏi: Em đang làm việc tại xí nghiệp XX, cuối tuần về thăm bố mẹ chẳng may em bị cảm, mà gần nhà bố mẹ không có trạm xá nên mọi người điều trị cho em tại nhà, kết hợp xuống thị trấn lấy thuốc cho em uống 1 tuần. Em khỏi bệnh và đi làm việc nhưng bị giám đốc sa thải, nói là theo Khoản 3, Điều 126, Bộ luật Lao động năm 2012. Vậy cho em hỏi: Quyết định của giám đốc đúng hay sai? Vì sao? (Nguyễn Ánh Dương - Bắc Giang)



>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 126 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong những trường hợp sau đây: 1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động; 2. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật này; 3. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng. Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động”. Theo như thông tin chị cung cấp, chị về quê, ốm và nghỉ làm 1 tuần (7 ngày). Do gần nhà chị không có trạm xá (cơ sở y tế) nên để chị điều trị ở nhà, như vậy là chị không có xác nhận của cơ sở khám bệnh, việc chị nghỉ 1 tuần là không có lý do chính đáng.
Trường hợp 1: 7 ngày nghỉ không có lý do chính đáng của chị đều là nghỉ trong 1 tháng làm việc. Như vậy, căn cứ theo Khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao động năm 2012 chị đã tự ý bỏ việc không lý do chính đáng quá 05 ngày, việc Giám đốc sa thải chị là đúng theo quy định của pháp luật.
Trường hợp 2: 7 ngày nghỉ của chị rơi vào thời gian giữa 2 tháng làm việc và không có tháng nào cộng dồn các ngày nghỉ không lý do chính đáng từ 5 ngày trở lên. Ví dụ: Tháng 02/2015 chị nghỉ 4 ngày vì ốm, không tự ý bỏ việc không chính đáng ngày nào trong tháng 02 đó. Tháng 03/2015 chị nghỉ 3 ngày vì ốm, không tự ý bỏ việc hoặc tự ý bỏ việc không lý do chính đáng dưới 2 ngày trong tháng.
Như vậy, việc căn cứ khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao động năm 2012 để sa thải chị là không đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, chị cần chú ý đến tự ý bỏ việc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng. Nếu cộng dồn tất cả những ngày nghỉ không lý do chính đáng trước đó của chị với 7 ngày nghỉ ốm này mà từ 20 ngày trở lên thì chị cũng có thể bị sa thải theo Khoản 3 Điều 126 BLLĐ năm 2012.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.