Theo quy định tại điều 38 Bộ luật lao động năm 2012 thì người sử dụng lao động chỉ có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong một số trường hợp nhất định và phải báo trước cho người lao động một khoảng thời gian hợp lý.
Hỏi:Tôi được nhận hợp đồng lao động tại một cơ quan nhà nước từ ngày 10 tháng 12 năm 2015 sau 8 lần hợp đồng 1 tháng thì đến ngày 01 tháng 8 năm 2016 thì được ký hợp đồng có thời hạn 1 năm và đến ngày 21 tháng 12 năm 2016 thì chấm dứt hợp đồng lao động của tôi khi chưa hết hạn hợp đồng. Vậy cho tôi hỏi tôi có được bồi thường không? Bồi thường như thế nào? (Minh Hiếu - Hải Phòng)
Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo thông tin bạn đưa ra, bạn cơ quan bạn đang làm đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bạn (HĐLĐ của bạn là hợp đồng xác định thời hạn 1 năm). Nhưng bạn không nói rõ là khi chấm dứt hợp đồng trước thời hạn kết thúc hợp đồng ( 1/8/2015) thì cơ quan bạn có báo trước cho bạn một khoảng thời gian hợp lý không (cụ thể là báo trước 30 ngày theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 38 BLLĐ 2012 về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động. Và bạn cũng không nói rõ lý do mà cơ quan bạn đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bạn.
Theo quy định tại điều 38 BLLĐ 2012 thì người sử dụng lao động chỉ có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong một số trường hợp nhất định và phải báo trước cho người lao động một khoảng thời gian hợp lý :
"Điều 38. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động:1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng."
Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì:
-Nếu như cơ quan bạn tuân thủ đúng quy định trên về việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bạn thì bạn sẽ không được bồi thường gì vì cơ quan bạn đã thực hiện đúng pháp luật
-Nếu như cơ quan bạn vi phạm các quy định nêu trên về điều kiện đơn phương chấm dứt HĐLĐ hay vi phạm quy định về thời gian báo trước cho bạn thì cơ quan bạn đã đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Và trường hợp này, cơ quan bạn sẽ phải thực hiện theo quy định tại điều42 BLLĐ 2012 như sau:
"Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước".
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận