Hợp đồng là sự thỏa thuận, do đó khi có thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt hợp đồng lao động thì kết quả thỏa thuận đó sẽ được pháp luật chấp nhận nếu nó không vi phạm điều cấm của pháp luật.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Trường hợp củaanh (chị)do không nói rõ làanh (chị)và chủ sử dụng lao động thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hay doanh (chị)đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Do đó chúng tôi sẽ chia làm hai trường hợp để giải đáp choanh (chị)được tốt hơn:
Trường hợp thứ nhất:anh (chị)và chủ sử dụng lao động thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động.
Hợp đồng là sự thỏa thuận, do đó khi có thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt hợp đồng lao động thì kết quả thỏa thuận đó sẽ được pháp luật chấp nhận nếu nó không vi phạm điều cấm của pháp luật. Sau khianh (chị)chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 2 điều 36 của Bộ luật lao động 2012: "hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng” thìanh (chị)sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định tại điều 48 Bộ luật lao động 2012.
Trường hợp thứ hai: bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Việcanh (chị)đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động sẽ được coi là đúng luật khianh (chị)thực hiện việc báo trước cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày vì hợp đồng lao động của bạn là hợp đồng không xác định thời hạn. Trong trường hợp này doanh (chị)thực hiện thời hạn báo trước theo luật định do đóanh (chị)sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định tại điều 48 Bộ luật lao động 2012 vì nó thuộc vào khoản 9 điều 36 Bộ luật lao động 2012: "người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điều 37 của bộ luật này” ( đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng luật).
Nếuanh (chị)vi phạm nghĩa vụ báo trước có nghĩa là chưa thông báo trước cho người sử dụng lao động hoặc đã báo trước nhưng chưa đủ 45 ngày thì sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc theo điều 48 của Bộ luật này cũng như sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại điều 49 của zluật việc làm 2013.
Khoản 1 Điều 49 Luật việc làm 2013 quy định: “Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau đây: a) Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; b) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng”.
Nếu thỏa mãn các điều kiện như đã phân tích,anh (chị)được hưởng trợ cấp thôi việc theo Điều 48 Bộ luật lao động năm 2012 như sau:
“1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. 2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. 3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc”.
Bên cạnh đó, nếuanh (chị)tham gia bảo hiểm thất nghiệp thì sẽ được hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp nếu sau khi nghỉ việc ba tháng màanh (chị)vẫn chưa tìm được việc làm mới và có làm hồ sơ xin hưởng trợ cấp thất nghiệp gửi lên trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương nơi muốn nhận ở quê.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận