Trường hợp của anh (chị), người bán nhà không có quyền chuyển nhượng đối với mảnh đất mà anh (chị) dự định mua, dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên vô hiệu. Do vậy, hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do lỗi của người bán, anh (chị) có quyền..
Hỏi:Vừa qua, tôi có ý định mua 1 mảnh đất với giá là 300 triệu đồng, tôi đã đặt cọc số tiền mua đất là 20 triệu và hẹn 1 tháng sau sẽ đưa hết số tiền còn lại. Tôi đã kí nhận giấy đặt cọc tiền đất trong đó có quy định: nếu bên mua không mua thì mất tiền cọc, bên bán không bán đền bù gấp đôi số tiền cọc. Tuy nhiên, đến gần ngày trả số tiền còn lại tôi phát hiện ra đây không phải là đất của người đã nhận tiền cọc. Tôi có hỏi và người ta giải thích là do sợ tốn tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên vẫn giữ tên chủ cũ. Tôi cảm thấy không an toàn nên quyết định không mua nữa. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có đòi lại được số tiền nhận đặt cọc không? (Lương Văn Sơn - Phú Thọ)
Luật gia Trần Thu Trang - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo khoản 1 Điều 168 Luật đất đai 2013 quy định về thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất, thì: “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận”.
Theo thông tin anh (chị) cung cấp thì mảnh đất anh (chị) dự định mua đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tuy nhiên, người bán cho anh (chị) không có tên trong Giấy chứng nhận đó. Do vậy, người bán đất cho anh (chị) không có quyền chuyển nhượng đối với mảnh đất trên. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không hợp pháp và vô hiệu.
Theo tinh thần của điểm a mục 1 của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về tranh chấp hợp đồng dân sự có đặt cọc như sau:
Trong trường hợp có tranh chấp về đặt cọc mà các bên không có thoả thuận khác về việc xử lý đặt cọc, thì việc xử lý được thực hiện như sau:
"a. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu, thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại Khoản 2 Điều 358 BLDS: “Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
Trường hợp của anh (chị), người bán nhà không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất (Giấy chứng nhận) nên không có quyền chuyển nhượng đối với mảnh đất mà anh (chị) dự định mua, dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng giữa hai bên vô hiệu. Do vậy, hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do lỗi của người bán, anh (chị) có quyền yêu cầu người bán đất cho anh (chị) trả lại tiền cọc đã nhận và có thể yêu cầu phạt cọc đối với bên bán. Trong trường hợp người bán đất không trả hoặc trả không đủ số tiền cọc đã nhận, anh (chị) có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người bán đất cư trú.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận