-->

Bỏ trốn khỏi nơi làm việc xử lý như thế nào?

Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng.

Hỏi: Bạn trai tôi sang Đài Loan lao động. Tuy nhiên, 02 tuần trước anh ấy đã tự ý nghỉ việc, bỏ trốn khỏi công ty để làm cho một công ty khác. Đề nghị Luật sư tư vấn, trường hợp như bạn trai tôi bị xử phạt như thế nào và ai có quyền xử phạt? (Trịnh Thị Oanh - Hưng Yên)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đỗ Mỹ Linh - Tổ tư vấn pháp luật Hành chính Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điểm b Khoản 2 Điều 35 Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 08 năm 2013của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, quy định như sau:

- Về việc xử phạt vi phạm: "Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: b) Bỏ trốn khỏi nơi đang làm việc theo hợp đồng;".

Theo đó, hành vi bỏ trốn khỏi công ty của bạn trai chị là vi phạm pháp luật, sẽ bị xử phạt từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

- Cơ quan có quyền xử phạt: "Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài có quyền xử phạt các hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương IV của Nghị định này: b) Phạt tiền đến 100.000.000 đồng;" (điểm a khoản 1 Điều 39).

Do đó người đúng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự hoặc cơ quan khác được ủy quyền của Việt Nam ở nước ngoài có thẩm quyền xử phạt với hành vi này.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.