Việc chia tài sản là đất khi không để lại di chúc theo hàng thừa kế như thế nào?
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
-Theo thông tin anh/chị cung cấp thì mảnh đất hiện gia đình anh/chị đang sinh sống có nguồn gốc từ việc ông bà anh/chị cải tạo từ đất bãi bồi ven sông, hơn nữa, việc bố mẹ anh/chị sinh sống lâu năm trên mảnh đất này không hề có sự thực hiện thủ tục tặng cho hay thừa kế từ ông bà anh/chị hay được sự đồng ý của những người anh em của bố anh/chị. Chính vì vậy, chủ sở hữu mảnh đất trên vẫn sẽ là ông bà anh/chị chứ không phải người đang sinh sống trên mảnh đất hiện nay là bố mẹ anh/chị.
1. Về việc chia di sản thừa kế của ông anh/chị (ông anh/chị chết không có di chúc từ thời điểm năm 1993)
Theo Luật Hôn nhân và gia đình, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, mảnh đất này của ông bà anh/chị có được trong thời kỳ hôn nhân thì được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng.
Theo đó, khi ông anh/chị mất, di sản của ông bạn để lại là quyền sử dụng một nửa diện tích mảnh đất trên, một nửa còn lại thuộc quyền sử dụng của bà anh/chị. Tức là, bà anh/chị sẽ được chia một nửa mảnh đất đó.
Môt nửa phần diện tích đất là di sản ông bạn để lại sẽ được xử lý như sau:
Pháp luật về thừa kế quy định về thời hiệu khởi hiện về thừa kế để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Ông bạn mất từ năm 1993, tính đến nay đã 22 năm nên đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
Tuy nhiên theo nghị quyết 02/2004/NQQ-HĐTP của Hội đồng thẩm pháp Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định như sau.
"Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".
Theo đó, trong trường hợp của gia đình anh/chị thì, sau khi ông anh/chị mất, phần tài sản mà ông anh/chị để lại vẫn chưa được chia thừa kế, do đó, nó trở thành tài sản chung giữa các đồng thừa kế (gồm bà anh/chị và 6 người con của ông bà anh/chị). Hiện nay, nếu bà anh/chị và các đồng thừa kế khác đồng ý thừa nhận phần tài sản này chưa chia và là tài sản chung của các đồng thừa kế thì có thể làm đơn kiện đến tòa án với nội dung khởi kiện là yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung giữa các đồng thừa kế.
Tuy nhiên, anh/chị cũng nên chú ý tới việc nếu một trong những đồng thừa kế không đồng ý thỏa thuận này thì không đủ điều kiện để trở thành tài sản chung của các đồng thừa kế. Do đó, có thể bố anh/chị và các đồng thừa kế khác sẽ không được chia phần di sản của ông anh/chị (mảnh đất) này.
2. Về việc chia di sản thừa kế khi bà anh/chị mất năm 2012
Do bà anh/chị mất mà không để lại di chúc nên sẽ chia thừa kế phần tài sản của bà anh/chị theo pháp luật theo quy định tại điều 676 bộ luật dân sự 2005, cụ thể như sau:
"Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Từ 2 phân tích trên có thể thấy việc sau khi bà anh/chị chết các người con đòi chia di sản thừa kế là đúng . Nhưng việc họ đòi chia mảnh đất trên thành 6 phần bằng nhau là không thể được vì phần di sản thừa kế của bà anh/chị để lại chỉ là một nửa mảnh đất đó cộng với phần di sản bà anh/chị được hưởng khi thực hiện việc chia di sản của ông khi ông anh/chị chết mà thôi nên bà anh/chị không có toàn quyền sở hữu đối với mảnh đất trên, do vậy khi bà anh/chị mất mảnh đất sẽ không thể được chia làm 6 phần bằng nhau được xác định căn cứ vào di sản của bà anh/chị được
Ngoài ra, việc bố anh/chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với mảnh đất của ông bà anh/chị mà bố anh/chị chỉ là người sinh sống trên đó mà không hề có bất kỳ giao dịch tặng cho hay thừa kế nào từ ông bà bạn cho bố bạn là sai pháp luật. Chính vì vậy, sau khi thực hiện việc chia thừa kế, theo quy định tại điều 106 luật đất đai 2013 quy định về việc đính chính, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp thì bố anh/chị sẽ bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do lỗi không đúng đối tượng sử dụng đất theo quy định tại điểm d khoản 2 điều 106 :
"2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai".
Như vậy, để có thể xác định chính xác ai là chủ sở hữu hợp pháp của mảnh đất trên thì gia đình anh/chị cần tiến hành ngay việc chia thừa kế đối với phần di sản của ông anh/chị trước sau đó đến bà anh/chị để có thể có được câu trả lời chính xác
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận