-->

Tư vấn về trả sổ bảo hiểm xã hội sau khi chấm dứt hợp đồng lao động

Trong trường hợp công ty không trả lại sổ bảo hiểm cho anh (chị), anh (chị) có thể làm đơn kiến nghị đến Hòa giải viên lao động cấp quận, huyện nơi công ty đóng trụ sở để yêu cầu được hòa giải hoặc làm đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân cấp huyện.

Hỏi:Thưa luật sư! Em sinh năm 1992, học xong đại học, do chưa tìm được công việc như ý muốn nên em đi làm công nhân tại Khu công nghiệp Đại An- tỉnh Hải Dương. Đó là công ty đầu tiên em đi làm. Trong thời gian làm việc từ tháng 3/2015 đến tháng 8/2015, em có tham gia bảo hiểm xã hội tại công ty.Sau thời gian đó, tháng 9/20105 em tìm được 1 công việc mới và xin nghỉ tại công ty. Khi em gọi điện lên lấy lại sổ BHXH thì công ty nói rằng thông tin của em đã được đóng BHXH ở đơn vị khác, trong khi thực tế em chưa từng đi làm ở đâu trước công ty này. Họ bảo không có sổ của em tại công ty và đọc cho em số sổ BHXH. Em lên trên mạng tra cứu thông tin thì không có dữ liệu đóng BHXH. Đề nghị Luật sư tư vấn, bây giờ em muốn lấy lại sổ BHXH thì em phải làm gì ạ? (Phạm Văn Anh - Nam Định)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

TạiĐiều 47 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

“1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động.

2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.

3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động”.

Mặt khác tại khoản 5 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội 2014 cũng quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động:

“ Phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động, xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội khi người lao động chấm dứthợp đồnglao động,hợp đồnglàm việc hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, khi anh (chị) đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật, công ty có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội cho anh (chị). Trong trường hợp công ty không trả lại sổ bảo hiểm cho anh (chị) trong vòng 7 ngày làm việc kể từ khi chấm dứt hợp đồng lao động, anh (chị) có thể làm đơn kiến nghị đến Hòa giải viên lao động cấp quận, huyện nơi công ty đóng trụ sở để yêu cầu được hòa giải hoặc làm đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân cấp huyện để được thụ lý giải quyết.

Vì vậy, nếu anh (chị) có đầy đủ bằng chứng chứng minh phía công ty thiếu trách nhiệm, cố tình chậm trễ việc trả sổ bảo hiểm xã hội, chốt sổ bảo hiểm xã hội cho anh (chị) thì anh (chị) có thể làm đơn khởi kiện đến tòa án.

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 31; điểm c khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì “tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động” thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp huyện nơi doanh nghiệp đặt trụ sở. Như vậy, anh (chị) có thể nộp đơn khởi kiện công ty về việc chậm trả sổ bảo hiểm xã hội đến tòa án để giải quyết quyền lợi cho mình.

Tuy nhiên trường hợp của anh (chị), anh (chị) có cung cấp thông tin khi anh (chị) gọi điện lên lấy lại sổ BHXH thì công ty nói rằng thông tin của anh (chị) đã được đóng BHXH ở đơn vị khác, trong khi thực tế anh (chị) chưa từng đi làm ở đâu trước công ty này. Công ty trả lời không có sổ của anh (chị) tại công ty và đọc cho anh (chị) số sổ BHXH. Anh (chị) lên trên mạng tra cứu thông tin thì không có dữ liệu đóng BHXH. Thời gian anh (chị) làm việc tại công ty cũ này là thời gian Luật Bảo hiểm xã hội 2006 vẫn còn hiệu lực, theo quy định Luật bảo hiểm xã hội 2006 này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện quy định về việc lập hồ sơ bảo hiểm xã hội, bảo quản sổ bảo hiểm xã hội theo đúng quy định, trong khoảng thời gian làm việc tại đây anh (chị) vẫn đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ, và không tham gia đóng bảo hiểm xã hội ở bất kỳ cơ quan làm việc nào khác, ngoài ra công ty vẫn thực hiện việc đóng bảo hiểm xã hội trên cơ sở tiền lương được trích của người lao động, chính vì vậy không có căn cứ để công ty xác định bảo hiểm của anh (chị) đang được đơn vị khác đóng và không trả sổ bảo hiểm cho anh (chị) được. Để bảo đảm quyền lợi của mình, theo quy định Luật bảo hiểm xã hội anh (chị) được quyền yêu cầu người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội cung cấp thông tin về việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội vì có thể trong trường hợp này đã xảy ra sai sót kỹ thuật, nhậm lẫn thông tin, ngoài ra trường hợp anh (chị) có các chứng cứ để chứng minh trong thời gian làm việc tại công ty anh (chị) có tham gia đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ thì anh (chị) có quyền yêu cầu công ty thực hiện đúng nghĩa vụ trả sổ bảo hiểm.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.