Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp không có di chúc
Hỏi: Tôi có một vấn đề cần nhờ tư vấn về luậtt gia đình với ạ. Tôi xin nói sơ qua về tình hình trong gia đình: ông bà tôi sinh được 6 người con, 4 nam và 2 nữ, hiện tại bà nội đã mất được 7 năm rồi, ông có kết hôn với một phụ nữ trên tuổi lao động được 3 năm để tiện chăm lo tuổi già, ông là cán bộ về hưu có lương nhà nước. Còn 6 người con thì đã có gia đình riêng, chỉ ông và bà kế sống ở nhà chính thờ tổ tiên (vì ông còn khỏe nên chưa giao sang bác trai cả thờ cúngng). Nhờ văn phòng luật tư vấn về vấn đề liên quan tới luật pháp theo quy định nhà nước như thế nào về việc phân chia tài sản, thờ cúng tổ tiên liên quan tới bà kế và con cháu ông nếu trường hợp sau này ông tuổi già. (Vân Anh - Hưng Yên)
Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế Công ty Luật TNHH Everest trả lời:
Do hiện tại ông nội bạn vẫn còn sống nên việc phân chia tài sản có thể được thực hiện theo hai hình thức: Theo thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Trường hợp thừa kế theo di chúc:
Theo quy định của pháp luật thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.”
Do ông nội bạn hiện nay vẫn sống khỏe mạnh nên ông có thể lập di chúc để định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật.
Và theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự về di chúc hợp pháp:
Điều 652. Di chúc hợp pháp
"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.”
Như vậy, theo quy định trên thì ông bạn hoàn toàn có quyền lập di chúc để phân chia di sản thừa kế của mình. Lúc này khi di chúc hợp pháp theo quy định thì việc phân chia di sản thừa kế sau khi ông bạn qua đời sẽ được thực hiện theo di chúc mà ông bạn để lại.
Trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Theo quy định tại Điều 674 Bộ luật Dân sự về những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Điều 675. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
"1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.”
Như vậy, theo quy định này thì nếu ông bạn chết mà không để lại di chúc hoặc có nhưng di chúc vô hiệu hoặc rơi vào một trong các trường hợp khác được quy định tại Khoản 1 Điều này thì di sản thừa kế của ông nội bạn sẽ được chia theo pháp luật.
Theo quy định tại Điều 676 Luật này về Người thừa kế theo pháp luật:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Theo quy định trên thì nếu ông nội bạn chết mà không để lại di chúc hoặc có nhưng không hợp pháp thì di sản thừa kế sẽ được chia theo hàng thừa kế. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông nội bạn sẽ bao gồm: bố, mẹ, vợ( nếu còn sống), các con bao gồm cả con đẻ và con nuôi. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất này sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau.
Tuy nhiên, thông tin bạn cung cấp có nói đến việc thờ cúng tổ tiên thì theo quy định tại Điều 670 của Bộ luật Dân sự 2005 về di sản dùng vào việc thờ cúng:
Điều 670. Di sản dùng vào việc thờ cúng
"1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”
Như vậy, nếu căn nhà bạn đang nói đến được xác định hoặc có căn cứ để xác định là nhà thờ cúng tổ tiên tức là di sản dùng vào việc thờ cúng thì căn nhà này sẽ không được xác định là di sản để chia thừa kế và sẽ được giao cho một người được chỉ định hoặc do thỏa thuận của những người đồng thừa kế quản lý để thờ cúng.
Từ các phân tích trên, nếu hiện tại ông nội bạn còn minh mẫn thì có thể lập di chúc để phân chia di sản thừa kế của mình sau khi chết, trong di sản thừa kế này nếu chỉ định căn nhà là tài sản dùng vào việc thờ cúng hoặc căn nhà đã được xác định là tài sản dùng vào việc thờ cúng trước đấy mà ông nội bạn chỉ là người quản lý thì căn nhà này sẽ không đem chia thừa kế và các di sản khác của ông nội bạn sẽ được chia theo di chúc sau không ông bạn chết.
Do ông nội bạn đã kết hôn với bà kế thì tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là tài sản chung của vợ chồng và sẽ được chia đôi trước khi chia thừa kế.
Nếu ông nội bạn không lập di chúc hoặc có lập nhưng di chúc không hợp pháp thì việc thừa kế sẽ được chia theo pháp luật theo như phân tích ở trên. Lúc này bà kế được xác định là vợ của ông nội bạn cũng sẽ được chia thừa kế theo hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng một phần bằng với những người thừa kế cùng hàng thừa kế.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận