-->

Tư vấn về kiện đòi lại đất đã bán

Trường hợp phần đất chuyển nhượng này là đất của hộ gia đình mà chỉ có người chồng ký hợp đồng chuyển nhượng thì giao dịch có thể bị tuyên vô hiệu, bạn phải trả lại đất và bồi thường thiệt hại đồng thời bên bán trả lại tiền cho bạn.

Hỏi: Gia đình ông A có một thửa vườn cà phê không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh của ông A cho tặng gia đình khi từ quê vào lập nghiệp. Vì lý do xung đột gia đình nên vợ con ông A về quê sinh sống còn ông A sống một mình ở thửa vườn cà phê này.Một thời gian sau (khoảng 3 năm) thì ông A gọi người để bán một phần vườn cà phê này. Gia đình em đồng ý mua một phần vườn cà phê (1 sào) của ông A với giá 30.000.000đ. Gia đình em đã làm giấy viết tay chuyển nhượng quyền sử dụng đất có 02 người chứng kiến và trả đủ số tiền 30 triệu đồng cho ông A. Sau khi nhận đất, gia đình em chặt bỏ hết số cà phê trên mảnh đất đã mua.Nhưng mấy ngày sau thì vợ con ông A ở ngoài quê vào đòi lấy lại đất và xảy ra tranh chấp với gia đình em. Vợ con ông A nói sẽ kiện ra tòa đòi lại đất và yêu cầu bồi thường số cà phê đã bị chặt phá.Vậy cho em hỏi nếu kiện ra tòa thì kết quả sẽ như thế nào? Gia đình em có phải bồi thường số cà phê đã chặt phá không? (Lã Huỳnh Anh - Tây Nguyên)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Thu Trang - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Vụ việc của bạn, chúng tôi đưa ra 2 trường hợp như sau:

Trường hợp thứ nhất: Mảnh đất mà gia đình bạn mua của ông A được anh trai của ông A tặng cho ông trước khi ông này kết hôn, thì mảnh đất này được coi là tài sản riêng của ông A. Do đó, ông này có toàn quyền định đoạt đối với quyền sử dụngmảnh đất này. Tức là ông A có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng mảnh đấtmảnh đất này mà không cần sự đồng ý của những người khác. Vì vậy, giao dịch chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng giữa gia đình bạn và ông A là hoàn toàn hợp pháp, bởi quyền sử dụngdiện tích đất này thuộc tài sản riêng của ông A, ông A có quyền bán. Vợ và con của ông A không có quyền đòi lại đất và đòi bồi thường.

Trường hợp thứ hai: Mảnh đất mà gia đình bạn mua của ông A được anh trai của ông A tặng cho ông khi ông này đã kết hôn, cũng không nói rõ là cho riêng ông A, thì được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông A. Tài sản chung vợ chồng được Luật hôn nhân gia đình 2014 định nghĩa như sau:

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng."

Do đó, khi chuyển nhượng quyền sử dụng mảnh đất đóphải có sự đồng ý của cả vợ và chồng ông A. Nếu như không có sự đồng ý của 1 người, thì việc người kia đưa tài sản này vào các giao dịch sẽ không được pháp luật công nhận. Trong trường hợp này, nếu như vợ ông A khởi kiện đòi đất, Tòa án sẽ tuyên giao dịch mua bán giữa gia đình bạn và ông A là vô hiệu, buộc các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận ( theo điều 137 Bộ luật dân sự 2005).Tức là, ông A phải hoàn trả cho gia đình bạn số tiền 30.000.000 đồng đã nhận trước đó, gia đình bạn phải giao trả đất và bồi thường đối với số lượng cây cà phê thực tế bị phá bỏ.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.