Luật Đất đai quy định: Không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau: 1. Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp; 2. Đất giao cho tổ chức mà pháp luật quy định không được phép chuyển nhượng quyền sử dụng; 3. Đất đang có tranh chấp.
Hỏi: Năm 1997 ông A mua của ông B một mảnh đất 200m2. Hai bên đã ký hợp đồng chuyển nhượng và giao tiền đầy đủ nhưng ông A chưa làm thủ tục xin cấp GCN. Ông A đã xây nhà trên đất với diện tích 150 m2. Tuy nhiên, năm 2014 ông B đòi lại mảnh đất trên. Nhưng ông A không đồng ý nhưng ông B cho rằng hợp đồng viết tay không có hiệu lực nên ông B có quyền bán cho người khác. Anh/ chị hãy dụa trên quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết tình huống trên. (Đỗ Vũ Nam - Hà Nội).
Luật gia Vương Tùng Anh - Tổ tư vấn pháp luật doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:
Do hợp đồng của ông A và ông B diễn ra vào năm 1997, nên sẽ áp dụng luật về trước đó để xác định hiệu lực của hợp đồng mua bán đất này. Theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 quy định: "Không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau: 1. Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp; 2. Đất giao cho tổ chức mà pháp luật quy định không được phép chuyển nhượng quyền sử dụng; 3. Đất đang có tranh chấp"
Theo quy định tại Điều 707 Bộ Luật dân sự 1995 quy định về hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phải được làm thủ tục và đăng ký tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai. Theo đó, vào thời điểm ông A và ông B thực hiện mua bán đất, pháp luật chỉ quy định phải lập thành văn bản mà không quy định có viết tay hay đánh máy. Căn cứ vào việc bản hợp đồng mua bán này có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay chưa để biết được hợp đồng này có vô hiệu hay không? Căn cứ Điều 145 BLDS 1995, thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu một số trường hợp xác định thời hiệu khởi kiện là 01 năm (ví dụ: giao dich vô hiệu vì lừa dối, nhầm lẫn, giao dịch với người chưa thành niên…); còn vô hiệu do vi phạm về hình thức, do giả tạo hoặc vi pham điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì không bị hạn chế về thời hiệu.
Dựa vào quy định này, nếu như trong thời hạn 1 năm mà ông B không yêu cầu khởi kiện hợp đồng vô hiệu thì coi như hợp đồng đã có hiệu lực và ông B không còn quyền khởi kiện vào năm 2014 nữa. Đồng nghĩa rằng ông B không thể đòi lại mảnh đất này, và cũng không có quyền bán đất này cho người khác.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận