Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Hỏi: Chúng tôi kết hôn năm 1995 và đến năm 2003 bố mẹ chồng tôi có cho một mảnh đất diện tích 50m2 và đã làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng mang tên chồng tôi. Và chúng tôi đã san ủi thành một lô đất bằng phẳng (Vì ngày trước lô đất này ở trên cao) đến năm 2006 chúng tôi xây một ngôi nha cấp 2, 3 tầng. Vậy giờ ly hôn tôi có được chia khối tài sản này không? (Hoàng Oanh - Hà Nội)
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Về vấn đề mảnh đất:Căn cứ theo điều 33 và khoản 1 điều 34 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: "Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác".
Ở đây, đất là tài sản phải đăng ký quyền sử dụng nên nó chỉ là tài sản chung khi cả hai vợ chồng bạn cùng có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo thông tin bạn cung cấp thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đứng tên chồng bạn và hai vợ chồng không có thỏa thuận khác vì vậy mảnh đất được coi là tải sản được tặng cho riêng chồng bạn. Do đó khi ly hôn đây là tài sản của riêng chồng bạn mà bạn không được chia.
Về vấn đề tài sản nằm trên đất là ngôi nhà:Theo điều 33 Luật hôn nhân gia đình thì ngôi nhà của bạn là “Tài sản chung của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân”. Vì vậy, khi ly hôn việc chia tài sản được xác định theo nguyên tắc tại điều 59 luật này. Theo đó:-Việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.- Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch".
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận