-->

Tư vấn pháp luật: Yêu cầu về lối đi chung khi tách sổ đỏ

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp phân chia lối đi chung sau khi tách sổ đỏ.

Hỏi: Gia đình tôi có 1 miếng đất tại Nha Trang, vào năm 1996 mẹ tôi có bán cho 1 người bạn tên H : 60m2 nhưng khi đó miếng đất này chưa có sổ đỏ nên việc mua bán này chỉ viết giấy tay. Và người này cũng đã tự kê khai và nộp thuế đất từ đó đến nay. Đến năm 2008 chúng tôi mới được cấp sổ đỏ và cũng đã tách phần đất của bà H ra luôn.Bây giờ bà H muốn làm sổ đỏ thì sở địa chính yêu cầu nhà tôi phải thể hiện có lối đi trên sổ đỏ của mình thì họ mới làm sổ cho bà H. Việc thể hiện lối đi chung này là do 2 bên thương lượng hay bắt buộc phải làm xin luật sư tư vấn giúp. Trong trường hợp phải chừa lối đi chung này thì qui định mới yêu cầu phải bao nhiêu mét hay không?

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005

Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật”- ( khoản 1 Điều 274 BLDS năm 2005.) Do đó, gia đình bạn và bà Hcó quyền thỏa thuận về việc cùng sử dụng lối đi chung này.

Mặt khác, tại Điều 275 BLDS năm 2005 đã quy định rõ về quyền lối đi qua bất động sản liền kề như sau

“1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.

Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù”.

Do vậy, gia đìnhbạnvà bà Hsẽ thỏa thuậnsử dụng lối đi chung này nhưng không được trái với các quy định pháp luật tại Điều 275 BLDS năm 2005 đã nêu trên.Theo khoản 2 như trên thì pháp luật không có quy định cụ thể màVị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

Tuy nhiên theo quy định của pháp luật dân sự thì các thỏa thuận ,giao dịch ,hợp đồngliên quan đến bất động sản phải được công chứng mới có hiệu lực pháp luật theo Khoản 2 Điều 689 Bộ luật dân sự 2005 quy định:"2. Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.".

Như vậy thỏa thuận về việc sử dụng lối đi chung này giữa gia đình bạn và bà H phải được công chứng ,thỏa thuận này có vai trò rất quan trọng nếu trong trường hợpsau này khi có tranh chấp xảy ra thỏa thuận được công chứng này sẽ là căn cứ để giải quyết.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.