-->

Tư vấn pháp luật: đi thi đơn hàng may Nhật Bản bị lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp không đòi lại được tiền từ công ty tổ chứ đơn hàng may Nhật Bản.

Hỏi: Tôi đi thi đơn hàng may Nhật Bản. Công ty thông báo tôi đã đỗ đơn hàng và yêu cầu tôi đóng 2.000 đô tiền đặt cọc và 14.200 đô tiền học. Tôi đã theo học 2 tháng nhưng sau đó tôi được Nghiệp đoàn cho biết thực chất tôi vẫn chưa đỗ đơn hàng. Tôi gặp trực tiếp giám đốc để hỏi tại sao tôi không đậu mà thu tiền của tôi nhưng giám đốc không gặp. Tôi về quê 2 ngày thì nhận được thông báo là tôi không đủ tư cách theo học. Tôi yêu cầu công ty hoàn trả lại số tiền tôi đã đóng cho công ty thì giám đốc nói không trả. Vậy hành vi của công ty có phải là hành vi lừa đảochiếm đoạt tài sản không? (Hà Hoàng - Đắc Lắc)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198  Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 139 Bộ luật Hình sự quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

Để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi vi phạm phải đáp ứng các yếu tố: “dùng thủ đoạn gian dối” và “chiếm đoạt tài sản của người khác”. Cụ thể hơn, 4 yếu tố cấu thành tội phạm (Khách thể của tội phạm; Chủ thể của tội pham; Mặt khách quan của tội phạm; Mặt chủ quan của tội phạm) được thể hiện như sau:

Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách gian dối. Đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin là sự thật nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt.

Trong trường hợp này, Công ty của bạn đã đưa ra những thông tin sai sự thật để bạn tin tưởng và đóng tiền cho công ty, cụ thể, Công ty thông báo bạn đã đỗ đơn hàng và yêu cầu bạn đóng 2.000 đô tiền đặt cọc và 14.200 đô tiền học nhưng thực chất bạn vẫn chưa đỗ đơn hàng. Như vậy, hành vi này là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối là đưa ra những thông tin không đúng sự thật để chiếm đoạt số tiền mà bạn đóng cho công ty.

Theo Khoản 1 của điều luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên sẽ cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo đó, tổng số tiền bạn đã bị công ty chiếm đoạt ở đây là 16.200 đô, do đó, giá trị tài sản bị chiếm đoạt của bạn đã đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội.

Khách thể của tội phạm:Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác. Trong trường hợp này, tội phạm đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bạn (số tiền bạn bị chiếm đoạt là 16.200 đô).

Chủ thể của tội phạm:Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Pháp luật Hình sự không quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân, do đó, việc khởi tố hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp này thì trách nhiệm hình sự sẽ thuộc về người đại diện theo pháp luật của công ty bạn.

Như vậy, theo những phân tích trên đây, việc làm của giám đốc bạn đã đủ yếu tố cấu thành tội chiếm đoạt tài sản.

Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
"Công dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc tổ chức xã hội. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.
Cơ quan hoặc tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản".

Như vậy, bạn có thể gửi đơn tố cáo hành vi của công ty bạn đến các cơ quan nêu trên, kèm theo các tài liệu, chứng cứ có liên quan để đề nghị khởi tố vụ án nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.