Công ty Luật TNHH Everest tư vấn chia tài sản khi vợ (chồng) mất.
Hỏi: Trong trường hợp vợ hoặc chồng mất thì người còn lại có quyền lấy ½ tài sản của mình để cho hoặc tặng mà không cần sự đồng ý của các con không ? ( Nguyễn Đức - Hưng Yên)
Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:
Sau khi kết hôn nếu hai vợ chồng bạn không có thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân thì toàn bộ những tài sản do vợ chồng tạo ra đều là tài sản chung giữa hai vợ chồng, khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
"Điều 33. Tài sản chung giữa hai vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng"
Khoản 1, 2 điều 219 Bộ luật Dân sự quy định:
"Điều 219. Sở hữu chung của vợ chồng
1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung."
Như vậy, sau khi vợ hoặc chồng mất, 1/2 số tài sản chung sẽ thuộc quyền sở hữu của bạn. Số tài sản này bạn hoàn toàn có thể đem cho, tặng bất kỳ ai mà không cần phải có sự đồng ý của các con
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận