Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng.
Hỏi: Vào năm 1992 gia đình tôi có mua một mảnh đất nông nghiệp của anh Nguyễn Văn A với giá 5.000.000đ (chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) mua bằng hình thức mua bán viết giấy tay (không có xác nhận của chính quyền địa phương) chỉ có một số hàng xóm xung quanh ký tên chứng kiến. Sau khi mua đất xong gia đình tôi có xây nhà trên mảnh đất đó (năm 1992) và có đóng thuế đất đầy đủ.Đến năm 2015 có chính sách làm GCN quyền sử dụng đất thì gia đình tôi đã đi làm thủ tục để được cấp GCN. Nhưng chị Nguyễn Thị B là vợ của anh A (là người bán đất cho gia đình tôi) có đơn khởi kiện về mảnh đất. Trong đơn kiện chị trình bày rằng việc mua bán đất giữa chồng chị và gia đình tôi chị không hề hay biết và việc mua bán đó không có giá trị.Trong giấy mua bán đất viết tay không có chị kí tên vì được biết mảnh đất này do lúc anh A mua đất và bán chị không hề biết. (Anh Nguyễn Văn A đã mất vào năm 2003). (Thu Trang - Hà Nội)
Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân gia đình năm 1986 (đang có hiệu lực tại thời điểm năm 1992):“Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình.Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng”.
Như vậy, cần xác định xem diện tích đất trên là tài sản chung hay tài sản riêng của anh Nguyễn Văn A. Trường hợp đây là tài sản chung của vợ chồng anh A thì việc chuyển nhượng phải được sự đồng ý của hai vợ chồng, thể hiện bằng việc cả hai người cùng ký vào văn bản chuyển nhượng hoặc có văn bản uỷ quyền của người vợ (chị B) cho anh A làm đại diện thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Nếu diện tích đất trên là tài sản riêng của anh A thì anh A có quyền định đoạt mà không cần có sự đồng ý của chị B.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận