Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Thứ nhất, cơ cấu tổ chức và cách thức thành lập Uỷ ban nhân dân.
Hội đồng nhân dân là hình thức quản lý Nhà nước ở địa phương theo lối mới. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương thì cũng chính là cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương, đóng vai trò cơ quan chỉ đạo, bao quát tất cả các công việc từ ra quyết định đến thực hiện quyết định và quản lý hành chính Nhà nước. Nhưng do phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân là theo kỳ họp (họp - tan), nên phải lập ra Uỷ ban nhân dân - cơ quan đảm nhiệm các chức năng tổ chức hoạt động thường xuyên của Hội đồng nhân dân và tổ chức thực hiện các nghị quyết của cơ quan này. Uỷ ban nhân dân, vì vậy, gắn liền với Hội đồng nhân dân, là hình thức làm việc của Hội đồng nhân dân giữa hai kỳ họp. Từ năm 1989 đặc biệt là từ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, do đã lập ra Thường trực của Hội đồng nhân dân nên chức năng thường vụ thường trực của Uỷ ban nhân dân có giảm đi "Uỷ ban nhân dân phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân ( và các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp chuẩn bị nội dung các kỳ họp Hội đồng nhân dân, xây dựng các đề án trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định" (Điều 120 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003). Hiện tại, chức năng chủ yếu của Uỷ ban nhân dân là tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương sự theo phân cấp.
Uỷ ban nhân dân gồm có: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là đại biểu Hội đồng nhân dân, các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu. Trong nhiệm kỳ, nếu khuyết Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì người được giới thiệu để bầu không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo quy định hiện hành số thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ 9 đến 11 người (riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có không quá 13 người); cấp huyện, quận, thị xã từ 7 đến 9 người; cấp xã, phường, thị trấn từ 3 đến 5 người. Trong đó số Phó Chủ tịch ở các cấp tương ứng là 3 đến 4 (hoặc 5), 2 - 3 và 1 - 2 người.
Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách đề cử chức vụ từng người. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được bầu ra trong số đại biểu Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Phó Chủ tịch và các thành viên khác được bầu ra theo sự giới thiệu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ trên. Kết quả bầu cử này phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, như đã nói ở trên, không giữ chức vụ đó quá hai nhiệm kỳ liên tục.
Trong quá trình soạn thảo Hiến pháp năm 1992 có ý kiến đề nghị thực hiện chế độ bổ nhiệm các chức vụ trong Uỷ ban nhân dân. Song Quốc hội đã quyết định giữ nguyên cách thức bầu cử như cũ nhưng quy định cách thức phê chuẩn mới, chặt chẽ hơn. Nếu như trước đây việc phê chuẩn do Uỷ ban nhân dân cấp trên thực hiện (Hội đồng Bộ trưởng đối với cấp tỉnh) và chủ yếu xem xét tính hợp pháp của việc bầu thì nay việc phê chuẩn do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thực hiện (Thủ tướng đối với cấp tỉnh) và cần phải đi vào thực chất các yêu cầu, tiêu chuẩn đối với các chức danh được bầu. Trường hợp không nhất trí kết quả bầu, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên (Thủ tướng đối với các thành viên Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) có thể yêu cầu Hội đồng nhân dân bầu lại.
Để tránh tình trạng trong khi chờ phê chuẩn không rõ ai là người điều hành công việc của Uỷ ban nhân dân cũng như để xác định rõ thời điểm bắt đầu thực hiện nhiệm vụ của các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu như Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các thành viên khác của
Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân mới ghi rõ: "Những người được bầu giữ các chức vụ nói trên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình ngay sau khi được bầu" (Điều 50 Luật năm 2003). Trường hợp chức danh nào đó không được cấp trên phê chuẩn thì với quy định này, những hoạt động của họ trong thời gian đó vẫn phù hợp về mặt pháp lý.
Thứ hai, hình thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân.
Trong tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân từ trước đến nay luôn quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách kết hợp với chế độ thủ trưởng. Sự vận dụng nguyên tắc này theo từng giai đoạn lịch sử có thể nghiêng về mặt này hoặc mặt kia. Tại Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994 và năm 2003, bên cạnh việc tiếp tục coi trọng tính tập thể lãnh đạo, đã có sự nhấn mạnh sự phân công và tăng cường hơn chế độ thủ trưởng so với trước đó.
- Hoạt động tập thể của Ủy ban nhân dân
Về vai trò của tập thể Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp quy định: "Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số" (Đ.124). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 tại điều
124 quy định 6 vấn đề mà Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số
gồm:
1. Chương trình làm việc của Uỷ ban nhân dân;
2. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách, quyết toán ngân sách hàng năm và quỹ dự trữ của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
3. Kế hoạch đầu tư, xây dựng các công trình trọng điểm ở địa phương trình Hội
đồng nhân dân quyết định;
4. Kế hoạch huy động nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phương trình Hội đồng nhân dân quyết định;
5. Các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân về kinh tế - xã hội, thông qua báo cáo của Uỷ ban nhân dân trước khi trình Hội đồng nhân dân;
6. Đề án thành lập mới, sáp nhập, giải thể các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân và việc thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở địa phương;
Uỷ ban nhân dân các cấp mỗi tháng họp ít nhất một lần. Các quyết định của Uỷ ban nhân dân phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban nhân dân biểu quyết tán thành.
Hình thức văn bản của Uỷ ban nhân dân là quyết định và chỉ thị. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký xác nhận thay mặt Uỷ ban nhân dân.
- Hoạt động của Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân.
Về vai trò thủ trưởng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Hiến pháp và Luật quy định khá nổi bật với tư cách là người lãnh đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân. Theo Hiến pháp năm 1992 một số nhiệm vụ, quyền hạn trước đây quy định cho Uỷ ban nhân dân như: phê chuẩn kết quả bầu Uỷ ban nhân dân; đình chỉ việc thi hành hay bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và đình chỉ các văn bản sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới v.v... nay được quy định cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, nhằm đảm bảo lãnh đạo và giám sát kịp thời hoạt động của các chính quyền Nhà nước cấp dưới ở địa phương.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
1. Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên mônthuộc Uỷ ban nhân dân;
2. Triệu tập và chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban nhân dân;
3. Phê chuẩn kết quả bầu các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; điều động, đình chỉ công tác, miễn nhiệm, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức Nhà nước theo sự phân cấp quản lý;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp mình và văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới;
5. Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ;
6. Chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Uỷ ban nhân dân trong phiên họp gần nhất;
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân được ra quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Phó Chủ tịch và các uỷ viên Uỷ ban nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do Chủ tịch phân công và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch về công việc được giao. Các Phó Chủ tịch, tuỳ theo số lượng và tính chất của từng cấp, thường được phân công phụ trách các mảng công tác như kinh tế - tài chính, văn hoá - xã hội. Các uỷ viên được phân công phụ trách các mặt công tác như công an, quân sự, tổ chức, thanh tra, kế hoạch, tài chính, văn phòng v.v...
Thứ ba, cơ chế chịu trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân
Cơ chế chịu trách nhiệm đề cập ở đây là cơ sở, hình thức và trình tự chịu sự phán xét và gánh chịu chế tài của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính cấp trên, của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên trước Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân do các hoạt động chấp hành, điều hành của mình.
- Trách nhiệm tập thể của Uỷ ban nhân dân.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 quy định: "Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước Chính phủ " (Đ.119). Đây là trách nhiệm tập thể của một cơ quan của cơ quan hành chính địa phương trước Hội đồng nhân dân và chính quyền Nhà nước cấp trên. Hình thức trách nhiệm được áp dụng thông thường là từ chức hoặc giải tán.
Ở nước ta thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám đã ghi nhận rất rõ các hình thức trách nhiệm này. Các Sắc lệnh 63 ngày 22-11-1945 và Sắc lệnh 77 ngày17-12-1945 quy định hình thức trách nhiệm từ chức của Uỷ ban hành chính trước Hội đồng nhân dân khi bị bỏ phiếu bất tín nhiệm và bị giải tán bởi Uỷ ban hành chính cấp trên khi không tuân lệnh cấp trên.
Việc quy định trách nhiệm tập thể của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. Song với cách quy định như hiện nay là còn rất chung và không thể thực hiện. Cần thiết phải quy định cụ thể hơn, đặc biệt là các hình thức chế tài, cơ sở và trình tự áp dụng.
- Trách nhiệm cá nhân của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên Uỷ ban nhân dân.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân quy định: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình... cùng với tập thể Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và trước cơ quan Nhà nước cấp trên. Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Mỗi thành viên của Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình trước Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp và cùng với các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan Nhà nước cấp trên" (Điều 125). Trách nhiệm ở đây thuộc phạm trù trách nhiệm chính trị thể hiện dưới các hình thức chế tài miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức.
Hình thức trách nhiệm của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là bị Hội đồng nhân dân bãi nhiệm, miễn nhiệm (không bao hàm ý cho thôi nhiệm vụ bình thường mà hiện nay vẫn dùng thuật ngữ này) và bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp (đối với cấp tỉnh là Thủ tướng) miễn nhiệm, cách chức, đình chỉ công tác. Các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, theo quy định của pháp luật hiện hành, chỉ chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân dưới hình thức bãi nhiệm, miễn nhiệm, không chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên (và Thủ tướng) chỉ phê chuẩn việc bãi nhiệm, miễn nhiệm đó. Riêng hình thức chịu trách nhiệm của mỗi thành viên của Uỷ ban nhân dân (kể cả Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên) trước Uỷ ban nhân dân cùng cấp cũng như của những thành viên khác của Uỷ ban nhân dân (ngoài Chủ tịch và Phó Chủ tịch đã nói trên) trước cơ quan Nhà nước cấp trên (được hiểu là Uỷ ban nhân dân hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp) như thế nào thì hiện tại cũng chưa được quy định rõ.
Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình
Xem thêm:
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail:[email protected],[email protected].
Bình luận