Tổ chức và hoạt động của các Toà án Nhà nước ta hiện nay về cơ bản theo nguyên tắc lãnh thổ kết hợp với thẩm quyền xét xử.
Luật tổ chức TAND năm 2014 đã thể chế hóa nội dung các văn kiện của Đảng về cải cách tư pháp, theo đó, tổ chức TAND 04 cấp bao gồm: TAND tối cao; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các Toà án quân sự (quy định tại Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014). Tổ chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn hoá nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí. Thứ nhất, Tòa án nhân dân tối cao
Theo Luật tổ chức TAND năm 2014, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao theo hướng tinh gọn với Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có từ 13 đến 17 Thẩm phán TAND tối cao; TAND tối cao không thực hiện nhiệm vụ xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 5 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Thẩm phán TAND tối cao; tổng kết thực tiễn xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quản lý các Toà án về tổ chức; xây dựng pháp luật theo sự phân công của Quốc hội, UBTVQH; bổ sung nhiệm vụ đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án; đồng thời, để cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp về việc “TAND tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tại khoản 4 Điều 22 của Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định: “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”.
Bên cạnh đó, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có nhiệm vụ “lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Việc bổ sung nhiệm vụ lựa chọn, phát triển và ban hành án lệ của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao sẽ đáp ứng yêu cầu phải kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Hơn nữa, việc công bố án lệ sẽ giúp người dân nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích của họ. Về phía Tòa án, tham khảo án lệ, phân tích thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó cũng sẽ giúp Thẩm phán rút kinh nghiệm, hạn chế việc kết án oan, sai. Với việc lựa chọn, ban hành án lệ, xác định trách nhiệm của Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, làm theo, chắc chắn sẽ có hiệu quả rất lớn trong việc hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” do tiêu cực của những người tiến hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và do đó về mặt xã hội, việc xây dựng và phát triển án lệ là một trong những phương thức hữu hiệu để bảo đảm công lý, góp phần duy trì, ổn định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.
Thứ hai, Tòa án nhân dân cấp cao
TAND cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao.
Về cơ cấu tổ chức, TAND cấp cao gồm Uỷ ban Thẩm phán (gồm Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm phán cao cấp do Chánh án TAND tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND cấp cao), các Tòa chuyên trách và bộ máy giúp việc. Trong đó, Uỷ ban Thẩm phán giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao theo quy định của pháp luật tố tụng. Các Toà chuyên trách xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh các loại Tòa chuyên trách hiện có trong cơ cấu tổ chức của TAND như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Luật tổ chức TAND năm 2014 bổ sung Tòa gia đình và người chưa thành niên để giải quyết các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên. Trường hợp do nhu cầu công tác, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong TAND cấp cao thì Chánh án TAND tối cao đề nghị UBTVQH xem xét, quyết định.
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND sơ thẩm thuộc địa hạt của tỉnh; không thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về cơ cấu tổ chức, tại mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh có một TAND cấp tỉnh như hiện nay. Bên cạnh đó, tương tự như đối với tổ chức bộ máy của TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Tòa chuyên trách bao gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành niên. Việc thành lập các Tòa chuyên trách ở từng TAND cấp tỉnh do Chánh án TAND tối cao quyết định. Trường hợp do nhu cầu công tác, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong TAND cấp tỉnh thì Chánh án TAND tối cao đề nghị UBTVQH xem xét, quyết định.
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án (như hiện nay) và giải quyết các loại việc khác theo quy định của pháp luật (như xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND).
Về cơ cấu tổ chức, tương tự như cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có các Tòa chuyên trách bao gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Toà xử lý hành chính. Việc thành lập các Tòa chuyên trách ở TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương phải tùy thuộc vào quy mô về công việc và đội ngũ Thẩm phán, công chức của từng đơn vị Tòa án; ở những đơn vị có số lượng công việc lớn, biên chế nhiều thì có thể thành lập Tòa chuyên trách. Việc thành lập Tòa chuyên trách cụ thể nào trong số các Toà chuyên trách nêu trên ở mỗi TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương do Chánh án TAND tối cao quyết định.
Theo quy định tại Điều 49 của Luật tổ chức TAND năm 2014 thì các Toà án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của luật. Về cơ bản, nội dung các quy định về tổ chức của Tòa án quân sự được kế thừa từ các quy định hiện hành, nhưng được chỉnh lý và cơ cấu lại để bảo đảm tính hợp lý và khoa học.
Về Thẩm phán và Hội thẩm
Thứ nhất, Thẩm phán
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 đã bổ sung những quy định tiêu chuẩn, điều kiện và trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán với nhiều nội dung mới. Trong đó, Thẩm phán được phân định theo 04 ngạch gồm: (1) Thẩm phán TAND tối cao, (2) Thẩm phán cao cấp, (3) Thẩm phán trung cấp, (4) Thẩm phán sơ cấp.Cùng với việc nâng cao các tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán, Luật tổ chức TAND năm 2014 cũng quy định về việc Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với Thẩm phán nhằm góp phần bảo đảm cho Thẩm phán yên tâm công tác, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng được kéo dài hơn theo định hướng đã được xác định trong các văn kiện của Đảng, cụ thể: “Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm".
Bên cạnh các nội dung nêu trên, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định chỉ thành lập một Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán; quy định thành lập Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp để tổ chức các kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán.
Thứ hai, Hội thẩm
Luật tổ chức TAND năm 2014 cũng bổ sung các quy định về Hội thẩm nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Hội thẩm TAND; bảo đảm việc tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử là phương thức để nhân dân thực hiện quyền tư pháp; đồng thời, thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử. Theo đó, Luật tổ chức TAND không quy định việc Tòa án quản lý Hội thẩm mà Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm hoạt động theo quy chế do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành (khoản 1 Điều 91).
Thạc sỹ Phạm Ngọc Minh - Khoa Luật Trường Đại
học Hòa Bình, tổng hợp
Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường
Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải
quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà
trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường,
Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH
Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh
viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng
đài tư vấn 19006198.
Bình luận