-->

Tố cáo con dâu ra Ủy ban nhân dân phường, thủ tục thế nào?

Điều 101 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, việc tố giác tội phạm có thể thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản.

Hỏi: Gia đình tôi nghi ngờ con dâu có hành vi ăn cắp, đánh tráo vàng của gia đình. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu gia đình tôi tố cáo con dâu tới UBND phường thì thủ tục như thế nào? (Vũ Thị Tuyến - Hải Phòng)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đình Hồng - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội trộm cắp tài sản như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Trong trường hợp gia đình anh (chị) nghi ngờ người con dâu có hành vi trộm cắp tài sản theo quy định trên, anh (chị) có thể tố giác hành vi phạm tội tới cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án hoặc các cơ quan, tổ chức khác. Anh (chị) cũng có tới Ủy ban nhân dân phường để thực hiện việc tố giác tội phạm.

Theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, việc tố giác tội phạm có thể thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản.

Như vậy, anh (chị) có thể viết đơn tố giác tội phạm gửi đến ủy ban nhân dân phường. Trường hợp tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Sau khi tiếp nhận tin tố giác tố phạm, ủy ban nhân dân phường sẽ có trách nhiệm thông báo với cơ quan điềut tra để giải quyết.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.