-->

Thỏa thuận về tiền lương trong thời gian nghỉ việc

Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.

Hỏi: Trưởng phòng hành chính thỏa thuận về vấn đề tiền lương thử việc với em nghỉ việc sau khi em đã vào làm, và ban quản lý trả lương không đúng như thỏa thuận ban đầu với lí do người trực tiếp thỏa thuận đã nghỉ việc nên thỏa thuận không còn hiệu lực, như vậy là đúng hay sai? (Vĩnh Thái - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Văn Lâm - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 28 Bộ luật Lao động quy định về tiền lương trong thời gian thử việc như sau: “Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó".

Điều 29 Bộ luật Lao động 2012 quy định về kết thúc thời gian thử việc: “1. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động. 2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận”.

Theo đó, nếu người thỏa thuận với bạn được giao nhiệm vụ thay mặt công ty thực hiện việc tuyển dụng thử việc hoặc được ủy quyền thì đó là thỏa thuận giữa bạn và công ty chứ không phải thỏa thuận giữa bạn và cá nhân người đó cho nên khi người đó nghỉ việc mà công việc tuyển dụng, giao kết hợp đồng thử việc được chuyển giao cho người khác thì người này phải có trách nhiệm như đã thỏa thuận ban đầu. Nếu người đã thỏa thuận thử việc ban đầu với bạn không có nhiệm vụ giao kết hợp đồng thử việc, không được ủy quyền thì thỏa thuận đó sẽ không có hiệu lực.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.