-->

Quy định về quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Hỏi: Năm 2004 ông A chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình là 140 m2 cho ông B và ông D, ngoài diện tích đất chuyển nhượng ông A còn để thêm một phần đất để làm ngõ đi chung cho cả 3 gia đình, diện tích đất để làm ngõ được ghi rõ trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.Không có hộ nào được lấn chiếm và sử dụng riêng và được ủy ban nhân dân xã xác nhận. Gia đình ông B và D đã làm nhà và đi lại ngõ chung này. năm 2010, nhà nước xây dựng một con đường chạy qua mặt tiền nhà ông B và D, vì vậy ông A đòi lại ngõ chung này và làm đơn đăng kí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích của ông đang ở và phần ngõ chung, Cho tôi hỏi là việc làm của UBND xã có đúng không và việc đòi lại đất chung của ông A có đúng không? (Thiên Phú - Nghệ An)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Bảo An- Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest- trả lời:

Điều 273 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề như sau:

"Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để bảo đảm các nhu cầu của mình về lối đi, cấp, thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thoả thuận khác".

Điều 274 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về việc xác lập quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề như sau:

"1.Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được xác lập theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

2.Trong trường hợp quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề đã được xác lập cho chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất thì người được chuyển giao nhà, quyền sử dụng đất cũng được hưởng quyền đó".

Điều 275 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền về lối đi qua bất động sản liền kề như

"1.Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.

Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

2.Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

3.Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù".

Theo quy định này thì có nghĩa là nếu 2 gia đình B và Dkhông có lối đi thuận tiện ra đường lớn thì gia đình Acó nghĩa vụ phải dành lối đi đó làm lối đi chung. Còn nếu như những gia đình B và Dcòn có thể rabằng con đường khác thuận lợi hơn thì gia đình Akhông phải có nghĩa vụ phải giành lối đi làm lối đi chung. Và nếu như lối đi đó gia đình Ađã được cấp sổ đỏ thì ông Acó quyền yêu cầu đòi lại. Khi tranh chấp đưa ra giải quyết thì gia đình Aphải chứng minh được là lối đi đó nhà A, nhà B và D chỉ sử dụng nhờ đất này. Phần đất vẫn được thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình A, chưa được thể hiện trên giấy tờ là lối đi chung của các gia đình.

Như vậy việc làm của UBND xã vào thời điểm đó là đúng.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.