Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn theo quy định tại Điều 96 Bộ luật Lao động năm 2012.
Hỏi: Tôi có làm cho một công ty Việt Nam và đã ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn ( Chỉ có 01 bản phía công ty giữ) và bản cam kết đào tạo vào ngày 01/01/2014.Nội dụng bản cảm kết đào tạo là sau khi được đào tạo phải làm việc cho công ty ít nhất 5 năm và chịu sự phân công công việc phía công ty - nếu chấm dứt hợp đồng lao động trước 5 năm sau khi đào tạo phải bôi thường 100 triệu chi phí đào tạo cho công ty. Tháng 02/2014 tôi được phía công ty cho đi đào tạo ở nước ngoài 2 tháng. sau 1 năm làm việc tại công ty do hoàn cảnh gia đình và sức khỏe nên em đã nộp đơn xin nghỉ việc báo trước 45 ngày. (ngày nộp đơn 10/08/2015), trong quá trình đợi quyết định nghỉ việc từ phía công ty em vẫn đi làm đầy đủ và bàn giao công việc ngày 20/8/2015 em nhận được đơn phản hồi từ phòng hành chính nhân sự công ty không chấp nhận đơn nghỉ việc của em và sẽ kiện em nếu như vi phạm bản cam kết đào tạo. Trong thời gian đợi hết 45 ngày em không được công ty thanh toán lương hành tháng ( tháng 8,9 năm 2015) mặc dù em đã nên gặp trực tiếp phòng nhân sự để yêu cầu thanh toán lương nhưng phía công ty không thanh toán. Sau thời hạn 45 ngày kể từ ngày làm đơn xin nghỉ việc, công tychưa trả sổ bảo hiểm và hiện nay em bị công ty khởi kiện ra tòa án yêu cầu bồi thường chi phí đào tạo 100 triệu theo bản cam kết trên. Vậy tôi có phải bồi trường chi phí đào tạo trên không và việc công ty không thanh toán lương và sổ bảo hiểm có đúng không và em phải làm như thế nào để đảm bảo quyền lợi của mình. (Thanh Trúc - Đà Nẵng)
Luật gia Hoàng Việt Dũng - Tổ tư vấn pháp luật Hành chính của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Điều 62 Bộ luật Lao động 2012 như sau:
"1.Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động được đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.
Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản.
2 Hợp đồng đào tạo nghề phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a) Nghề đào tạo; b) Địa điểm đào tạo, thời hạn đào tạo; c) Chi phí đào tạo; d) Thời hạn người lao động cam kết phải làm việc cho người sử dụng lao động sau khi được đào tạo; đ) Trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo; e) Trách nhiệm của người sử dụng lao động.
3.Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài".
Xét quy định trên của Luật Lao động thì việc công ty đòi bạn bồi thường chi phí đào tạo là 100 triệu đồng là đúng luật.
Điều 37 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động như sau:
"1.Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động; c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động; đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2.Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước: a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này; c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3.Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này".
Theo những gì bạn đã cung cấp thì trường hợp của bạn thuộc điểm d khoản 1 điều 37 Bộ Luật Lao Động. Như vậy, bạn có quyền chấm dứt hợp đồng lao động với công ty và không phải bồi thường nếu chứng minh được mình thuộc các trường hợp của Điều 37 Bộ luật lao động. Trong trường hợp các căn cứ là không đủ để chứng minh thì bạn nên thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động theo điều khoản 3 Điều 36 Bộ luật Lao động: Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động. Vì bản chất của hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa các bên nên việc thỏa thuận có thể khiến bạn đạt được mục đích của mình hoặc giới han mức bồi thường cho công ty ở mức thấp nhất.
Điều 96 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về Nguyên tắc trả lương như sau:
"Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn.
Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương".
Như vậy, việc công ty không thanh toán tiền lương cho bạn là sai và bạn có quyền yêu cầu công ty thanh toán số tiền lương đó. Nếu công ty không thanh toán tiền lương và trả sổ Bảo hiểm xã hội cho bạn thì bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện . Lúc này, bạn có thể làm đơn yêu cầu hòa giải viên lao động giải quyết, hoặc bạn cũng có thể làm đơn khởi kiện gửi trực tiếp lên Tòa án nhân dân cấp huyện, nơi công ty đăng ký kinh doanh.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật Hành chính mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận