Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định
Hỏi: Ông A sinh năm 1955, bị tai nạn khi còn trẻ, lại do tuổi cao, mắt mờ không thể đọc và ký được, nhưng vẫn minh mẫn.Nay ông muốn bán 01 căn nhà có sổ đỏ (đứng tên ông A) nhưng không giao kết hợp đồng chuyển nhượng được vì bị cho là mất năng lực hành vi dân sự. Ông A không có vợ con. Tình trạng nêu trên có làm hạn chế khả năng tham gia giao dịch của ông A không? (Đỗ Vũ Nam - Hà Nội).
Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:
Thứ nhất, về việc cho là ông A mất năng lực hành vi dân sự
Một người được coi là mất năng lực khi thỏa mãn các yêu cầu được quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự như sau:
"Điều 22.Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện."
Theo đó một người chỉ được coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và được Tòa Án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Trường hợp của bạn Ông A không bị Tòa Án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự nên ông ấy không được coi là người mất năng lực hành vi dân sự, hơn nữa theo thông tin bạn cung cấp thì ông ấy vẫn còn rất minh mẫn do đó không có căn nào để khẳng định ông A mất năng lực hành vi dân sự. Ông ấy không bị hạn chế khả năng giao dịch.
Thứ hai, về khả năng tham gia giao dịch của ông A
Trường hợp của ông A việcxáclập được hợp đồng chuyển nhượng và công chứng hợp đồng chuyển nhượng được quy định tại Khoản 2 Điều 47 Luật công chứng 2014 như sau:
"2. Trường hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được, không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng.
Người làm chứng phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc công chứng.Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ định."
Theo đó, hợp đồng chuyển nhượng hoàn toàn có thể tiến hành được nhưng phải có người làm chứng, người làm chứng có thể do ông A và người mua mời với điều kiện người đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên và không có quyền và lợi ích liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng này.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận