Quy định việc xét xử sở thẩm của Tòa án đã có Hội thẩm nhân dân tham gia đã có từ rất lâu, ngay từ những ngày thành lập Tòa án nhân dân. Đây là một nguyên tắc mang tính dân chủ đại diện trong tố tụng dân sự.
Tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư pháp năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần nhắc nhở: “Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…”. Muốn đưa ra quyết định đúng đắn, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm tham gia là sự bổ sung cần thiết. Hội thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy.
Hiện nay, thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, một trong những yêu cầu trọng tâm của tiến trình cải cách tư pháp là làm cho vai trò của Toà án ngày càng độc lập hơn đối với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Việc độc lập của Toà án không chỉ đòi hỏi nâng cao năng lực xét xử của các Thẩm phán, mà kể cả Hội thẩm khi tham gia công tác xét xử. Bài viết này đi sâu phân tích “Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự”.
Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
- Khái niệm hội thẩm nhân dân, nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
(i) Khái niệm Hội thẩm nhân dân.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, Hội thẩm nhân dân là “đại biểu của nhân dân tham gia việc xét xử sơ thẩm hoặc chung thẩm” . Theo từ điển Luật học thì Hội thẩm nhân dân là “Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật đề làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án” . Khái niệm này giống với khái niệm Hội thẩm nhân dân được quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002. Như vậy, có thể hiểu rằng: Hội thẩm nhân dân là những người được bầu lên từ nhân dân để tham gia xét xử những vụ án.
(ii) Khái niệm nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
Nguyên tắc được hiểu theo nghĩa chung nhất là “ điều cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loại việc làm” . Từ đó, ta hiểu rằng nguyên tắc là điều đã được định sẵn và luôn luôn phải được tuân thủ khi làm một việc gì đó. Nguyên tắc chính là những tư tưởng mang tính chất xuất phát điểm thể hiện bản chất của một lĩnh vực hoạt động nhất định và chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các hoạt động của lĩnh vực đó.
Trong tố tụng dân sự cũng có những nguyên tắc được quy định trong BLTTDS. Nguyên tắc của Luật tố tụng dân sự Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự và được ghi nhận trong các văn bản tố tụng dân sự. Trong BLTTDS hiện hành, các nguyên tắc được quy định từ Điều 3 đến Điều 25 tại Chương II Những nguyên tắc cơ bản.
Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự được quy định tài Điều 11 BLTTDS năm 2015. Đây là một trong những nguyên tắc cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam. Từ khái niệm về Hội thẩm nhân dân, khái niệm về nguyên tắc của Luật TTDS Việt nam, có thể khẳng định rằng: Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự là một nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam, thể hiện tư tưởng pháp lý khi xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự phải có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự.
- Ý nghĩa của nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử.
Thứ nhất, nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử giúp tăng cường mối quan hệ giữa tòa án và nhân dân. Góp phần nâng cao hiệu quả của công tác xét xử, đảm bảo tính chính xác, khách quan, công tâm minh bạch của việc xét xử. Thúc đấy việc phòng ngừa tội phạm, nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử thể hiện tính dân chủ. Phát huy khả năng làm việc việc tập thể trong công tác xét xử để dảm bảo xử đúng người đúng tội, tránh tình trạng oan sai.
Thứ ba, nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử vì đáp ứng dược theo nguyện vọng của nhân dân, đưa tiếng nói của nhân dân vào việc xét xử. Như vậy, nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vừa phù hợp với quy định của pháp luật, vừa phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Thứ tư, việc quy định Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử giúp tuyên truyền pháp luật. Từ công tác xét xử thực tiễn của Hội thẩm nhân đan, pháp luật được tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân, qua đây cũng góp phần xây dựng và sửa đổi những quy định pháp luật chưa phù hợp.
- Cơ sở của việc quy định nguyên tắc hội thẩm tham gia xét xử.
Tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “ việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử trong thủ tục rút gọn”. Nguyên tắc này trở thành một nguyên tắc hiến định, được cụ thể hóa trong Luật tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân 2012, BLTTHS, BLTTDS, BLTTHC. Sở dĩ quy định như vậy bởi vì:
Về mặt lý luận :Một trong những đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Bản thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc", bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân . Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử, họ vừa là người giám sát hoạt động xét xử của Tòa án đông thời họ trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Về mặt thực tiễn: có thể nhận thấy rằng việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử là rất cần thiết. Hội thẩm không những giám sát hoạt động xét xử mà còn đưa “tiếng nói của nhân dân” vào trong việc xét xử. Hội thẩm là những người có uy tín trong cộng đồng xã hội, là những người am hiểu cuộc sống thưc tế, có trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định ở một lĩnh vực nào đó. Do vậy, họ nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, từ đó họ dễ dàng tìm hiểu, nắm bắt được nguyên nhân,điều kiện phạm tội, tâm lý của người phạm tội trong vụ án hình sự, của các đương sự trong vụ án dân sự để cùng thẩm phán đưa ra được những phán quyết đúng người đúng tội, tránh những trường hợp oan sai. Bên cạnh đó, hội thẩm nhân dân còn góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến đời sống nhân dân.
- Lịch sử hình thành và phát triển của chế độ xét xử có hội thẩm tham gia.
Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia có lịch sử hình thành và phát triển. Về chế độ Hội thẩm tham gia xét xử được ghi nhận lần đầu tiên trong Sắc lệnh số 33/SL ngày 21/01/1945 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/01/1946. Trong sắc lệnh số 13 về Cải cách tổ chức các tòa án và các ngành tư pháp do chủ tịch Hồ Chí Minh kí ngày 24/1/1946 đã làm rõ hơn một số quy định về phụ thẩm tham gia xét xử hình. Trong lúc đó, các việc “về dân sự và thương sự, Chánh án xử một mình”. Hội thẩm nhân dân thời kì này với tên gọi là Phụ thẩm, chưa tham gia xét xử các vụ án dân sự.
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp của Nhà nước ta đã chính thức ghi nhận nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử “ Trong khi xét xử hình thì phải có phụ thẩm nhân dân tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình , hoặc cùng quyêt định với thẩm phán nếu là việc đại hình” .
Đến sắc lệnh sô 85/SL ngày 22/5/2950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đã đổi tên Phụ thẩm nhân dân thành Hội thẩm nhân dân và mở rộng quyền tham gia xét xử các vụ án của Hội thẩm nhân dân. Như vậy, theo sắc lệnh số 85/SL thì Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án hình sự, dân sự, có quyền biểu quyết bình đẳng với Thẩm phán
Hiến pháp năm 1959 quy định “ việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán” . So với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã quy định cụ thể về chế độ khi xét xử phải có hội thẩm nhân dân tham gia. Trên cở sở Hiếp pháp 1959, Luật tổ chức tổ chức Tòa án nhân dân quy định “ Khi xét xử sở thẩm, Tòa án nhân dân gồm một thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân…” .
Hiến pháp năm 1980 ghi nhận nguyên tắc này tại Điều 130 “ việc xét xử phải có hội thẩm nhân dân tham gia…”. Ngoài ra, còn quy định chi tiết thêm Hội thẩm nhân dân được bầu, nhiệm kì không quá hai năm rưỡi đối với hội thẩm nhân dân Tòa án tối cao, không quá hai năm đối với hội thẩm nhân dân Tòa án địa phương. Trong pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự năm 1989 chưa xây dựng nguyên tắc hội thẩm tham gia xét xử vụ án dân sự thành một nguyên tắc riêng mà chỉ quy định “Khi xét xử, thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Hiến Pháp 1992 quy định “ việc xét xử của tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của tòa án quân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật”. Trên tinh thần của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức TAND năm 1992 và pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1993 được ban hành và tiếp tục ghi nhận các nguyên tắc của Hội thẩm như: khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán…. Đến năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mới được ban hành thay thế cho Pháp lệnh 1993 đã quy định Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam gồm Hội thẩm nhân dân Tòa án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Hội thẩm nhân dân Tòa án cấp Huyện, quận, thị xã trực thuộc tỉnh. Bộ Luật TTDS năm 2004 đã quy định việc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử thành một nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS Việt Nam. Cụ thể, tại Điều 11 BLTTDS 2004 quy định việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự “Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”.
Hiến pháp năm 2013 quy định về chế độ tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân tại khoản 1 Điều 103 “Việc xét xử sở thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2014, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, BLTTDS 2015 quy định về việc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự thành một nguyên tắc tại Điều 11 “1. Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn….”
Nội dung nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự.
- Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn tại khoản 1 Điều 11.
Quy định việc xét xử sở thẩm của Tòa án đã có Hội thẩm nhân dân tham gia đã có từ rất lâu, ngay từ những ngày thành lập Tòa án nhân dân. Đây là một nguyên tắc mang tính dân chủ đại diện trong tố tụng dân sự. Hội thẩm được bầu lên từ các tầng lớp nhân dân. Do đó, họ là người đại diện cho các tầng lớp nhân dân trong việc xem xét và giải quyết vụ án dân sự, nhằm bảo vệ các quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ không phải là những người được đào tạo về pháp luật, họ không có những kĩ năng chuyên nghiệp như thẩm phán, nhưng họ có cái nhìn và cảm nhận khách quan của một người lao động bình thường trên cơ sở suy xét cái đúng, cái sai, hợp lý và hợp pháp để biểu quyết về một vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của đương sự. Người ta muốn có tiếng nói của người không am hiểu về pháp luật, không bị ràng buộc bởi những quy định cứng nhắc của pháp luật nhưng có cái nhìn khách quan, phải nói là trong trắng, vô tư về sự việc. Từ đó, BLTTDS đã ghi nhận nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự thành những quy định cụ thể:
(i)Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng: được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 46. Như vậy, Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự với tư cách là người tiến hành tố tụng dân sự;
(ii) Hội Đồng xét xử sở thẩm vụ án dân sự: Được quy định tại Điều 63 BLTTDS năm 2015 “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Bộ luật này. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sở thẩm có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân ...”
Thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự được quy định là bao gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân, trừ xét xử theo thủ tục rút gọn. Ngoài ra, trong trường hợp vụ án đó phức tạp hoặc đặc biệt thì có thể có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Như vậy, quy định này đã làm rõ nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự. Có thể thấy rằng, quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý, phù hợp về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Đối với một vụ án dân sự, có hai Hội thẩm nhân dân là thành phần của hội đồng xét xử đã bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử. Hơn nữa, việc quy định hai Hội thẩm mà chỉ có một Thẩm phán cũng giúp cho công tác xét xử tạo nên sự cân bằng giữa thành phần hội đồng xét xử.
Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận thêm hai điểm mới mà BLTTDS năm 2011 chưa có về tư cách của Hội thẩm nhân dân trong hai trường hợp đặc biệt đó là: đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên và đối với vụ án lao động.
Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã từng hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em. Đây là một điểm tiến bộ của BLTTDS năm 2015 bởi vì trẻ vị thành niên là những người có tâm lý chưa được hình thành một cách hoàn thiện. Nếu xét xử như xét xử các đương sự đã thành niên thì dễ gây tổn hại đến thần, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Do vậy, việc quy định Hội thẩm nhân dân là những người đã từng hoặc đang làm việc tại các cơ quan nói trên là hoàn phù hợp. Bời vì những người này đã từng hoặc đang làm công tác liên quan trực tiếp đến trẻ vị thành niên, họ nắm bắt được tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được tâm lý của các đương sự, do đó họ có cái nhìn chính xác hơn về các hành vi của các đương sự này gây ra. Từ đó giúp cho công tác xét xử được thực hiện tốt hơn.
Đối với vụ án lao động thì Hội thẩm nhân dân phải là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện tập thể lao động hoặc người có kiến thức về pháp luật lao động. Với việc quy định như vậy, BLTTDS năm 2015 hướng đến bảo vệ những người yếu thế. Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác trong tổ chức đại diện của người lao động như công đoàn… hoặc là người hiểu biết về pháp luật lao động khi tham gia xét xử sẽ có cái nhìn chính xác, toàn diện nhất. Họ đưa ra được những ý kiến quan trọng để bảo đảm tính khách quan, chính xác của vụ án cũng như bảo vệ quyền lợi của người yếu thế.
Như vậy, đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên và vụ án lao động thì đang hình thành nên đội ngũ Hội thẩm nhân dân chuyên trách đối với những đối tượng đương sự là người yếu thế trong xã hội.
- Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Nội dung thứ hai của nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự được quy định tại khoản 2 Điều 11 BLTTDS 2015 “ Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”. Đây là một quy định hoàn toàn phù hợp với thực tế. Bởi vì nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm nhân dân đã được BLTTDS năm 2015 quy định cụ thể. “Chỉ có khi biểu quyết thì mới thể hiện lá phiếu của Hội thẩm và Thẩm phán, bởi đơn giản là Bản án hoặc quyết định được quyết định theo đa số và không phụ thuộc đa số đó là ai, Hội thẩm nhân dân hay một Hội thẩm nhân dân và một Thẩm phán. Trong trường hợp Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân có nghĩa là Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán” .
Đây là một quy định mới của BLTTDS năm 2015, trước đây, BLTDS năm 2011 quy định là “ Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán”. Quy định mới của BLTTDS năm 2015 đã khắc phục được hạn chế của quy định cũ. Nếu như quy định trước đây, thì Hội thẩm và Thẩm phán sẽ có quyền và nghĩa vụ như nhau khi xét xử. Nhưng trên thực tế, Hội thẩm sẽ không thực hiện được hết vai trò của mình. Với quy định mới là “ Khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán” sẽ bảo đảm được trọng lượng “tiếng nói” của Hội thẩm. Thông qua việc biểu quyết, Hội thẩm đã thể hiện quan điểm của mình về cách giải quyết vụ án.
Trong hệ thống pháp luật tố tụng hiện nay ở nước ta, chế định HTND là một trong những chế định bắt buộc, có tính quyết định đến các bản án sơ thẩm trong hoạt động tư pháp. Bởi vì, hầu hết bản án sơ thẩm đều yêu cầu phải có sự tham gia của số lượng tối thiểu 2/3 thành viên của Hội đồng xét xử là các HTND. Cùng với số lượng đó là tính quyết định của HTND trong Hội đồng xét xử đối với bản án sơ thẩm. Với vai trò quan trọng như vậy, việc nâng cao chất lượng, đảm bảo hiệu quả hoạt động của đội ngũ HTND là một yêu cầu cần thiết. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp ở nước ta nhằm hướng tới một mục tiêu chung là củng cố hệ thống Toà án ngày càng vững mạnh, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận